Trang chu

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Bố mất, mẹ tái giá, bác gái nhặt ve chai nuôi anh khôn lớn, để đến một ngày…

Bố mất mẹ tái giá, bác gái đã lượm ve chai nuôi anh khôn lớn. Ngày kết hôn, cô dâu khiến bà trở thành người được ngưỡng mộ nhất.

Ngày kết hôn, bác gái trở thành người được ngưỡng mộ nhất. (Ảnh: Internet)


Không phải ruột thịt, mà còn hơn cả ruột thịt


Đây là một câu chuyện có thật, bố anh sau khi bị chết đuối, mẹ anh đã bỏ rơi anh tái giá, họ hàng thân thích đều xem anh như bệnh truyền nhiễm, mọi người đều hắt hủi xua đuổi không ai chịu nhận nuôi anh, chỉ có bác gái, một mình ngậm đắng nuốt cay nuôi anh khôn lớn.


Về sau, mọi người trong làng đều ngưỡng mộ bác gái ấy, khen con trai bác giỏi giang, con dâu hiếu thảo. Mẹ hiền con thảo, thật đúng là khổ tận cam lai!

*****


Bố mất mẹ tái giá, người thân họ hàng đều hắt hủi tránh xa, xem tôi như bệnh truyền nhiễm


Nghe ông bà nội nói, khi tôi mới được 1 tuổi, bố tôi chèo thuyền ra giữa sông đánh cá không may bị chết đuối. Khi tôi được 3 tuổi thì mẹ tôi tái giá, từ đó về sau không bao giờ trở về thăm tôi lấy một lần.


Bác gái (vợ của người bác thứ hai) bởi không sinh đẻ được, kết hôn đã mấy năm mà vẫn không có con, liền bảo bác trai hãy nhận nuôi tôi.


Bác trai và bác gái đều vô cùng yêu thương tôi, đã cho cho tôi một tuổi thơ ấm áp. Nhưng mà, năm tôi được 9 tuổi, bác trai vì căn bệnh ung thư nên đã ra đi mãi mãi.


Bác gái đau đớn khóc đến tưởng như chết đi sống lại, ngày chôn cất bác trai, bác gái nắm chặt lấy tay tôi nói rằng: “Sau này, hai mẹ con chúng ta phải nương tựa nhau mà sống”.


Lúc đó, ông nội mở một cuộc họp gia đình, bác trai cả, chú ba và các chú đều đến cả, ông nội hỏi họ có ai đồng ý nhận nuôi tôi không.

Họ đã tìm đủ mọi lý do để tránh xa cái thứ “ôn dịch” như tôi… (Ảnh: Internet)


Bác trai cả nói, bác ấy đã lớn tuổi rồi, không có khả năng để nuôi tôi nhiều năm như vậy.


Chú ba thì nói nhà chú còn phải gánh vác nhà đình, nhà chú đã có đến ba người con.


Chú tư nói, vợ chú ấy không đồng ý…


Họ đã tìm đủ mọi lý do để tránh xa cái thứ “ôn dịch” như tôi, muốn đẩy tôi xa được chừng nào hay chừng nấy.


Lúc này, bác gái đã đến, bác lớn tiếng nói rằng: “Tôi sẽ nuôi, các bác các chú không cần phải quản”.


Sau đó, bác ấy đi vào nắm chặt lấy tay tôi rồi đi vội ra ngoài, ông nội hít một hơi thuốc, nói: “Con vẫn còn rất trẻ, còn có cơ hội kiếm được một người đàn ông tốt, một mình nuôi con như vậy, tương lai sau này sẽ thế nào đây!”.


Bác ngẩn người một lúc, giọng tức giận hét lên một câu: “Vậy con không tái giá nữa, được chưa!”. Ngay tức khắc, cả nhà đều im lặng không nói nên lời.


Bác gái nhặt ve chai kiếm tiền cho tôi ăn học

Từ đó về sau, mẹ nuôi tôi nỗ lực hơn bất cứ ai, một thân một mình trồng mấy mẫu ruộng, còn nhặt ve chai để kiếm thêm khoản tiền sinh hoạt.


Tôi sẽ không bao giờ quên được, cuối tuần khi về đến nhà, tôi đều giúp mẹ làm việc, mỗi ngày tan trường tôi đều nấu cơm giặt giũ giúp mẹ.

Bác ấy lúc nào cũng bận rộn, nhưng chưa từng để cho tôi phải thiếu thốn cái ăn cái mặc, mẹ nuôi tôi luôn dành hết thảy những gì tốt nhất cho tôi.


Bản thân tôi cũng không chịu thua kém, thi đỗ trung học, cao đẳng, đại học.


Hôm tôi thi đậu đại học, bác ấy khóc một mình trong phòng, ôm lấy di ảnh của bác trai, nói: “Con trai của chúng ta thật sự rất xuất sắc, anh có nhìn thấy không?”.

Bác gái hằng ngày tảo tần nuôi tôi khôn lớn. (Ảnh: Internet)


Trong khoảng thời gian học đại học, bác gái hàng tháng đều gửi phí sinh hoạt cho tôi đều đặn, có những lúc còn gửi thêm cho tôi vài triệu đồng.


Có lần nghỉ hè trở về quê nhà, tôi phát hiện trong nhà không có thứ gì ăn, về sau tôi mới biết bác ấy vì để dành tiền, chỉ ăn đồ hộp và rau trồng trong sân vườn của mình trong suốt một thời gian dài, rất ít khi đi ra chợ mua đồ ăn.


Bác gái mỗi lúc một gầy đi, da cũng càng lúc càng đen sạm, vì tôi mà bác ấy đã từ bỏ cuộc đời tốt đẹp của mình.


Ngày hôn lễ, bác gái đã trở thành người được toàn hội trường ngưỡng mộ nhất


Sau khi tốt nghiệp đại học, tôi đã đi làm và quen biết Lệ Phương. Cô ấy cũng xuất thân từ quê nghèo, rất siêng năng, cũng rất hiếu thuận với cha mẹ.


Khi nghe tôi kể lại câu chuyện của cuộc đời mình, cô nói sau này nhất định sẽ hiếu thuận với mẹ tôi. Tôi cũng nói, tôi cũng sẽ hiếu thuận với bố mẹ cô ấy.


Hai chúng tôi cùng nhau gây dựng sự nghiệp trong 5 năm, đã có nhà có xe, năm trước tôi đã cầu hôn với cô ấy. Chúng tôi không tổ chức lễ cưới trong nhà hàng, mà tổ chức đám cưới ở nông thôn.


Vợ tôi nói: “Hãy để cho mọi người trong làng được nhìn thấy niềm tự hào của mẹ, bà ấy cả đời này đã hy sinh cho anh quá nhiều, cũng rất cực khổ rồi!”.


Ngày kết hôn, vợ tôi đã tặng một chiếc lắc tay bằng vàng cho mẹ nuôi tôi, mọi người trong làng đều không khỏi ngưỡng mộ.


Lúc vợ đeo cái lắc tay cho mẹ nuôi tôi, nói: “Mẹ, mẹ lại có thêm một cô con gái nữa, sau này con sẽ hiếu thuận với mẹ, yêu thương mẹ, xem mẹ giống như là mẹ ruột của con vậy”.


Một câu nói đơn giản như vậy, bác gái xúc động cười đến nước mắt tuôn trào ra


Về sau, người trong làng nhìn thấy mẹ nuôi tôi đều nói: “Số bà tốt thật, con trai thành đạt, cô con dâu lại rất hiếu thuận”. Mẹ luôn cười không ngậm được miệng.


Gần đây, tôi muốn đón mẹ lên thành phố sống chung với hai vợ chồng tôi. Những mẹ nói, mẹ không nỡ bỏ lại những đàn gà đàn vịt nơi quê nhà, không nỡ bỏ lại vườn rau, không nỡ bỏ lại hết thảy mọi thứ trong ngôi nhà này…


Cái làng quê chứa đầy hồi ức này, bởi vì có mẹ nuôi tôi mà trở nên đặc biệt, nhiều lúc khiến lòng tôi không khỏi chua xót.


“Mẹ, ở nhà mẹ hãy ráng giữ gìn sức khỏe, chăm sóc tốt cho bản thân, con sẽ thường xuyên trở về thăm me. Mẹ hãy yên tâm, cả đời này con sẽ luôn là hy vọng và nơi nương tựa của mẹ…”


Hạnh phúc không nằm ở chỗ có được, mà ở chỗ biết cảm ân.


Hãy luôn trân quý những người đã hy sinh và yêu thương chúng ta.


Cầu chúc cho họ mãi mãi mạnh khỏe, hạnh phúc …

Nếu không có sự bình tĩnh của bà, chuỗi oán hận sẽ kéo dài vô tận

Sự tĩnh lặng, tình yêu thương, biết cảm thông và sẻ chia có lẽ chính là câu trả lời cho tất cả những bi kịch của xã hội chúng ta. Câu chuyện này sẽ giúp bạn hiểu hơn về điều đó.

Yêu thương và sự chia sẻ giúp thế giới chúng ta tốt đẹp hơn. (Ảnh minh họa)


Người đàn ông đang làm việc thì bị ông chủ la mắng, anh cảm thấy bị xúc phạm, thấy mình yếu đuối và vô dụng.

Rồi anh về nhà, vừa thấy mặt vợ thì đã hét vào mặt cô rằng “cô tiêu xài hoang phí quá nên tôi mới vất vả thế này!”.

Người vợ thấy mình bị sỉ nhục, cô uất ức và cho rằng mình bất tài. Quay ra, cô thấy đứa con vừa làm vỡ chiếc bát, lập tức cô mắng nó té tát.

Đứa trẻ thấy mình ngốc nghếch và vụng về, nó chạy đi và đá mạnh vào con chó đang nằm. Con chó kêu ăng ẳng, sợ hãi và đau đớn, nó chạy ra đường và cắn 1 người phụ nữ đi ngang qua.

Người phụ nữ bất ngờ và đau, bà đến bệnh viện rồi lại quở mắng vị bác sĩ vì bất cẩn mà khiến bà đau đớn hơn.

Vị bác sĩ về nhà, cậu mang theo sự thất vọng và hoài nghi, mẹ cậu đã dọn cho cậu bữa ăn thơm ngon, nhưng cậu lại lớn tiếng với bà vì món ăn không vừa ý và đã nguội lạnh.

Người mẹ trầm tĩnh, bà vuốt nhẹ mái tóc con và khẽ khàng nói, “Mai mẹ sẽ nấu cho con món ăn mà con yêu thích nhé, con trai! Con vất vả rồi, chắc là mệt lắm, thôi hãy nghỉ ngơi đi con! Mẹ sẽ trải nệm mát cho con, sẽ có 1 giấc ngủ ngon ngay thôi! Ngày mai mọi chuyện sẽ tốt hơn thôi, con à!”

Bà hôn lên trán con trai, rồi lặng lẽ rời đi để cậu nghỉ ngơi.

…..

Này bạn hỡi, vòng xoáy thù hận và tức giận chỉ có thể chấm dứt bằng sự kiên nhẫn, khoan dung và yêu thương. Hãy ghi nhớ trong lòng điều này, bạn nhé!

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2016

Quà tặng tâm hồn: Ông già bán vé số và con chó trung thành

Ông đã trên tám mươi tuổi, sống chung với một con chó. Hằng ngày ông dắt nó đến chỗ gốc cây sồi để bán vé số. Ông già rồi, không đủ sức để đi bán dạo khắp nơi, nên chỉ có thể ngồi ở đó…

(Ảnh: Internet)

Ẳng…ẳng…ẳng… Tiếng con chó vang lên ở góc phố vắng lặng. Nó chạy đến bên ông lão. Trên miệng nó đang ngậm một ổ bánh mì đã bị xé một nửa. Chân sau nó đang chảy máu, những giọt máu đỏ tươi chảy xuống vỉa hè bên cạnh ông lão. Ông run run đôi bàn tay gầy guộc lấy cái bánh mì để xuống một tờ báo đã cũ kĩ.


Ông lấy một tờ báo khác, xé ra lau vết thương cho nó bằng một tờ giấy ông rút ra từ ngực áo. Con chó dụi dụi mặt vào cổ, vào ngực ông, nó rên lên ư ử. Ông xoa đầu nó, xoa lưng nó, ôm nó vào lòng, dỗ dành nó như đang dỗ dành một đứa trẻ làm nũng.

Ông xé cái bánh mì ra từng vụn nhỏ để lên bàn tay rồi đút cho nó. Nó ăn ngon lành, vừa ăn vừa quẫy cái đuôi mừng rỡ.

Ông và nó đã sống với nhau đã bảy năm trong căn nhà gỗ nhỏ chưa đầy tám mét vuông. Hằng ngày ông dắt nó đến chỗ gốc cây sồi để bán vé số. Ông già rồi, khoảng trên tám mươi. Ông không đủ sức như trai trẻ có thể đi dạo khắp nơi để bán, ông chỉ có thể ngồi ở đó.

Con chó rất khôn, nó thường đi lại chỗ quán bán bánh mì chờ chủ quán cho những ổ bánh mì người ta ăn dở để mang về. Ông không ăn nhưng nó ăn, nó đặc biệt thích bánh mì. Cái chân nó chảy máu là do một người khách đã lái xe đụng nó khi dừng lại mua bánh mì.

Rồi ông bệnh, một cơn bạo bệnh ập đến. Nó tự mở then cửa để đi xin bánh mì, nhà ông ở gần đó nên nó nhớ đường. Nó không thể làm gì để giúp ông.

Nó đứng cạnh ông, nhìn ông rồi đi vòng vòng bên giường nơi ông nằm. Tuy ông rất mệt nhưng vẫn vuốt ve nó, xé những mẩu bánh mì cho nó ăn. Nó chỉ ăn vài ba miếng nhỏ rồi không ăn nữa. Dường như nó biết ông bệnh, không ăn uống gì được nên nó buồn nó cũng bỏ ăn.

Ông với tay lấy ca nước đặt gần nơi ông nằm, nhưng tay ông yếu, không đủ sức để cầm và đánh rơi xuống đất. Tiếng rơi làm con chó giật mình, nó chạy lại cắp cái quai ca vào miệng rồi chạy qua cào cửa một người hàng xóm vẫn thường hay giúp đỡ ông.

Nó cứ đứng đó vừa sủa, vừa cào cánh cửa sắt liên tục nhưng không ai ra mở cửa, có lẽ họ đã đi vắng.

Ông ráng kêu nó vào, giọng ông chỉ còn nghe được rất nhỏ. Nó chạy vào bên ông, nó buồn. Một nỗi buồn hằn sâu trên khuôn mặt nó. Ông ôm nó vào lòng, nâng niu khuôn mặt nó. Rồi ông chỉ tay vào những ổ bánh mì còn đó. Nhưng nó chẳng buồn nhìn lấy một lần.

Đêm đó ông mất. Nó đã kêu suốt đêm, có lẽ nó đang khóc, nó đang xin mọi người cứu giúp chủ của nó. Nó chạy qua nhà hàng xóm kêu cửa và đứng rất lâu để chờ.

Người hàng xóm đi ra mở cửa, nó dẫn ông đi qua nhà của chủ nó. Mọi người làm đám tang cho ông. Con chó cứ quanh quẩn nhìn chủ của mình. Nó khóc những giọt nước mắt lăn dài trên mặt. Người ta hỏa táng rồi mang hũ tro về đặt ở nhà ông, lập cho ông một bài vị.

Từ khi ông mất, con chó không còn đi xin bánh mì nữa. Nó cũng chẳng ăn, uống bất cứ thứ gì. Nhà hàng xóm thấy nó tội nghiệp mang nó về nuôi nhưng nó chẳng chịu đi đâu. Nó nằm trên chiếc giường nơi ông đã nằm đến giây phút cuối cùng. Sức nó mỗi ngày một yếu dần đi vì nó chẳng ăn uống gì, với lại nó nhớ ông.

Nó cứ nằm im một chỗ, giây phút cuối cùng trong cuộc đời nó nhìn lên hũ tro của ông rồi nhắm mắt lại. Giọt nước mắt chảy ra từ khóe mắt, nó đã đi theo ông sau một tuần…

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

100 triệu để mua tình yêu và 5 câu chuyện đáng ngẫm…

Mẹ của cô gái vì muốn chàng trai phải từ bỏ con gái mình nên đã đưa ra cái giá ‘bồi thường tình cảm’ là 100 triệu. Chàng trai trẻ từ chối, anh thở dài và lấy trong túi ra một tờ chi phiếu…

(Ảnh: Internet)

1. Cái giá của tình yêu

Mẹ của cô gái: “Đây là 20 triệu, hãy buông tha cho con gái của tôi”.

Chàng trai: “Dì ơi, chúng con yêu nhau thật sự ạ”.

Mẹ của cô gái: “40 triệu!”

Chàng trai: “Dì ơi, con yêu con gái của dì không phải vì tiền. Tình yêu đích thực trên thế giới này không phải được đong đếm bằng tiền ạ”.

Mẹ của cô gái: “60 triệu!”

Chàng trai: “Dì ơi! Dì đang ép buộc con đấy!”

Mẹ của cô gái: “100 triệu! Đây là giá cuối cùng, hãy từ bỏ con gái của tôi”.

Chàng trai trẻ thở dài 3 giây, sau đó cậu lấy trong túi ra một tấm séc rồi nói: “Đây là chi phiếu 1 tỷ, con sẽ vẫn kết hôn với con gái của dì!”.


Cho dù phải đánh đổi tất cả, một số người cũng sẽ không bao giờ để mất tình yêu, hạnh phúc của mình, vì họ biết rằng đó mới là điều mà bản thân mình cần nhất.

2. Câu chuyện “Chỗ đậu xe”

Tại một tòa cao ốc của Thụy Điển có hơn 2.000 chỗ đậu xe. Mỗi ngày, người đến sớm thường đậu ở nơi cách xa văn phòng hơn.

Có người hỏi: “Các bạn cứ đến văn phòng là đậu xe ở đây sao?”.

Trả lời: “Chúng tôi đến sớm có nhiều thời gian để đi bộ trên đường hơn. Các đồng nghiệp đến muộn sẽ đậu ở gần văn phòng hơn để không phải đi bộ xa và đỡ bị muộn giờ làm”.


Vì người khác mà suy nghĩ, con đường sẽ đi được xa hơn!

3. Câu chuyện mượn dù


Một ngày Khổng Tử đi ra ngoài, trời đang mưa nhưng ông lại không có dù. Có người nói:“Tử Hạ có đó, mượn của Tử Hạ đi”.

(Ảnh: Internet)

Khổng tử nghe xong liền nói: “Không được! Tử Hạ là người keo kiệt. Nếu tôi hỏi mượn mà anh ta không cho, mọi người sẽ nghĩ anh ta không tôn trọng thầy của mình. Còn nếu cho tôi mượn, anh ta chắc chắn sẽ rất đau khổ”.


Khi kết giao với người khác, chúng ta cần biết được ưu điểm và nhược điểm của họ. Chúng ta không nên chỉ nhìn khuyết điểm của người khác, nếu không tình bạn sẽ không lâu bền.

4. Câu chuyện đi lấy Kinh

Một con ngựa và một con lừa nghe nói Đường Tăng muốn đi Tây Thiên thỉnh Kinh. Con lừa cảm thấy rằng việc này khó khăn trùng trùng điệp điệp liền từ bỏ. Nhưng con ngựa lại lập tức đi theo, kinh qua 81 khổ nạn để lấy về Chân Kinh.

Con lừa hỏi: “Anh bạn! Có phải đi lấy Kinh vô cùng vất vả phải không?”.

Ngựa trả lời: “Kỳ thực trong khoảng thời gian tôi đi Tây Thiên lấy Kinh, bạn cũng phải đi bộ không ít, lại còn bị bịt mắt, bị đánh đập. Trên thực tế, người không có lý tưởng sống mới cảm thấy mệt mỏi”.


Sự mệt mỏi thực sự chính là sống trong mê và vô tri.

5. Câu chuyện hợp tác

Một đêm đang ngủ bỗng ổ khóa đánh thức chìa khóa và phàn nàn: “Tôi làm việc chăm chỉ mỗi ngày để bảo vệ căn nhà, tuy nhiên khi ngủ, ông chủ lại nâng niu bạn trong tay và luôn mang theo bên người. Tôi thực sự hâm mộ bạn đấy!”.

Chìa khóa cũng bất mãn nói: “Bạn ở nhà mỗi ngày, thật thoải mái và nhàn nhã! Tôi mỗi ngày đi theo chủ nhân, dầm mưa dãi nắng, quá vất vả! Tôi mới phải hâm mộ bạn!”.

Một ngày, chìa khóa cũng muốn thử cảm giác an nhàn, thế là tự giấu mình đi. Sau khi chủ nhân về nhà, không có chìa khóa liền gọi thợ đập bỏ ổ khóa và thuận tay ném ổ khóa vào thùng rác.

Sau khi vào nhà, chủ nhân nhìn thấy chiếc chìa khóa và nói rằng: “Ổ khóa đã đập bỏ rồi, giờ giữ ngươi lại thì còn tác dụng gì?”. Nói xong, ông chủ liền đem chìa khóa ném vào thùng rác.

Sau khi bị ném vào thùng rác, ổ khóa và chìa khóa than thở: “Hôm nay chúng ta rơi vào kết cục đáng buồn này, chính là trước đây chúng ta không nhìn thấy giá trị của nhau. Chúng ta đứng núi này trông núi nọ, so đo thiệt hơn, đố kỵ cùng nghi ngờ vô căn cứ!”.


Nhiều khi, người với người có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Vì thế, nếu cả hai cùng nhìn nhau soi mói và tranh đấu, nó chỉ có thể làm cho cả hai cùng tổn thương và gặp thất bại. Chỉ có phối hợp tốt, nhìn vào điểm tốt của nhau mà sống hòa thuận, ủng hộ vô điều kiện, tin tưởng và tôn trọng nhau thì mới có thể cùng chiến thắng.

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

Đạo lý thâm sâu từ một bức tranh: Lùi lại là để tiến về phía trước

Lùi lại chính là để tiến về phía trước. Lời dạy của thiền sư trong câu chuyện cổ dưới đây thật thâm sâu, là lời nhắc nhở cho người đời.

Tại Thiền viện Long Hổ, trên bức tường trước chùa, chư tăng đang chú tâm vẽ tranh rồng và cọp đấu nhau. Rồng thì ở trong mây cuộn mình lao xuống; cọp thì chực sẵn trên núi dốc sức phóng vồ lên. Chư tăng cứ tô đi vẽ lại, đổi tới đổi lui mãi, nhưng nhìn chung cái thế vẫn chưa xứng.


Vừa lúc ấy, Thiền sư Vô Đức (Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương) từ bên ngoài trở về, chư tăng liền mời Ngài xem và xin ý kiến.


Thiền sư Vô Đức xem xong, nói:


“Về hình dáng bên ngoài của rồng và cọp thì vẽ tốt rồi. Nhưng về đặc tính của rồng và cọp thì các huynh có hiểu chăng? Rồng trước khi tấn công thì đầu nó phải rút lùi về phía sau. Cọp khi muốn nhảy vồ lên thì đầu nó phải hạ thấp xuống đất. Cổ rồng rút lùi về phía sau càng nhiều thì sức quật lại càng mạnh. Đầu cọp càng hạ sát mặt đất thì khả năng tấn công càng nhanh và nhảy vồ lại càng cao”.


Chư tăng nghe xong rất vui mừng và thưa:


“Ngài nói thật quá đúng! Chúng con không những vẽ đầu rồng hướng quá về trước, mà cái đầu con cọp cũng vươn quá cao. Hèn chi nãy giờ xem hoài mà thấy động tác không xứng”.


Nhân đó, Thiền sư Vô Đức nói thêm:


“Làm người ở đời xử sự với nhau và đạo lý tham thiền học đạo cũng là giống như thế. Sau khi lùi lại một bước để chuẩn bị thì mới có thể tiến xa hơn. Sau khi hạ thấp mình xuống một chút để phản tỉnh thì mới có thể vươn cao được”.


Chư tăng chưa hiểu nên thưa hỏi thêm:

“Bạch Hòa thượng, người mà lùi lại một bước thì sao có thể tiến lên trước được ạ?”.


Thiền sư nghiêm nghị bảo:


“Các huynh hãy nghe ta nói một bài thơ thiền:


Thủ bả thanh ương sáp mãn điềnĐê đầu tiện kiến thủy trung thiên;Lục căn thanh tịnh phương vi đạoThoái bộ nguyên lai thị hướng tiền”.


(Tạm dịch:


Tay cầm mạ non ruộng cấy liền

Cúi đầu thấy bóng trời trong nước;

Thân tâm thanh tịnh lòng trông đạo

Lùi lại chính là để tiến lên.)


Thiền sư Vô Đức bảo: “Các huynh có thể lĩnh hội được chăng?”.


Lúc đó mọi người mới bừng tỉnh lời của thiền sư dạy.

Thứ Năm, 22 tháng 12, 2016

Người chăn ngựa và học trò xuất sắc của Khổng Tử, ai đàm phán giỏi hơn?

Không nên dùng những đạo lý mà người khác nghe không hiểu để đi thuyết phục họ. Trong thương lượng đôi khi điều quan trọng nhất là hợp tình hợp lý, chứ không phải là hữu tình hữu lý.


Một ngày nọ, Khổng Tử đi ra ngoài du ngoạn, trên đường đi trong lúc nghỉ ngơi, con ngựa của ông đã gặm phải hoa màu của một người nông dân. Sự việc khiến người nông dân rất tức giận, bắt con ngựa nhốt lại. Học trò của Khổng Tử là Tử Cống biết chuyện liền lập tức đi đến để thương lượng với người nông dân.



Nói về Tử Cống, ông là người như thế nào? Khổng Từ có bốn bài học chính, đó là đức hạnh, ăn nói, chính sự và văn học. Tử Cống rất giỏi về ăn nói, sử dụng ngôn từ rất khéo léo và sắc sảo, là nhân tài ngoại giao hàng đầu thời bấy giờ.

Khoảng thời gian đó Điền Thường dẫn quân nước Tề tấn công nước Lỗ. Khổng Tử muốn học trò của mình có thể đứng ra cứu Lỗ quốc thoát khỏi nguy nạn này: “Tử Lộ xin đi, Không Tử ngăn lại”; “Tử Trương, Tử Thạch xin đi, Khổng Tử không cho”; “Tử Cống xin đi, Khổng Tử đồng ý”.

Tài thuyết phục của Tử Cống đã giúp nước Lỗ dành thắng lợi một cách thần kỳ

Do đó Tử Cống xuất phát tiến về phía nước Tề. Khi đối mặt với Điền Thường, ông nói: “Lỗ quốc là nước có trường thành vừa mỏng vừa thấp, đất đai ít lại không phì nhiêu, quốc quân vừa ngu dốt vừa không nhân từ, đại thần vừa dối trá vừa vô năng, cả lính và dân chúng đều không muốn đánh trận, rất dễ chinh phạt, ngài không nên đánh”.

Ông lại tiếp túc nói: “Không giống như đánh Ngô quốc, có trường thành của vừa cao vừa dày đất đai rộng lớn màu mỡ, mũ và áo giáp của quân lính rất bền và cứng, thương mâu thì sắc bén, số lượng quân lính đông, lương thực dồi dào, tướng quân dũng mãnh thiện chiến; ngài đem quân đánh họ mới là đúng đắn”.

Sau nghe Tử Lộ nói một tràng dài, Điền Thường tức giận: “Khó đánh sao ngươi lại bảo ta đánh!”.

Từ Cống vẫn không chút hoang mang giải thích:

“Ngài đánh Lỗ quốc có thể vừa đánh đã thắng, nhưng Tề vương sẽ vì đó mà ngạo nghễ, đại thần trong triều sẽ bắt đầu tranh công, ngài rất dễ chuyện này mà bị người khác gây phiền phức.

Còn nếu đánh Ngô quốc thì sẽ khác, Ngài không thể nhanh chóng giành thắng lợi được, binh lính chết ở nước khác, dân chũng cũng sẽ phẫn nộ oán hận Tề Vương, các đại thần có tài giỏi sẽ lần lượt được phái ra trận, như vậy ở trong triều ngài sẽ không có tình địch nữa, Tề vương muốn cô lập ngài cũng không có cơ sở. Lúc này, nắm chắc vận mệnh của Tề quốc, thì duy chỉ có ngài thôi”.

Điền Thường với dã tâm muốn thoán vị nghe vậy thì thấy rất cao hứng, nhưng quân binh đã đang hành quân đến Lỗ quốc, mà Tề – Ngô, cuộc chiến này không thể không đánh. Do đó Tử Cống đã dẫn quân đến nước Ngô trước, thuyết phục Phù Sai cứu nước Lỗ, khiến cho Tề – Ngô, hai nước có thể danh chính ngôn thuận khai chiến. Sau đó Tử Cống lại đến nước Việt đàm phán với Câu Tiễn, cuối cùng mới đến nước Tấn.

Cuối cùng mưu sách của Tử Cống cũng đã thành công, kết quả của chuyến xuất chinh ngoại giao này đã thay đổi sức mạnh của các nước vào thời kỳ bấy giờ. Trong sử ký có ghi lại: “Tử Cống xuất chinh, Lỗ tồn, Tề loạn, Ngô bị phá, Tấn cường, Việt bá”.

Ngoài ra, Tử Cống cũng là một thương nhân, có khả năng liệu tính cũng như khả năng thực tế. Ông kiếm được rất nhiều tiền, là một phú thương nổi danh là giàu có thời bấy giờ.

Tử Cống là học trò xuất sắc của Khổng Tử.

Chọn đúng người hành sự

Lại nói về sự việc ban đầu. Một Tử Cống đầy tài năng và những chiến công, đến chỗ người nông dân nói lý lẽ để xin con ngựa về. Nhưng mọi việc lại không như ý muốn, Tử Cống đã thất bại triệt để, người nông dân căn bản không thèm để ý đến đến lời thỉnh cầu của Tử Cống.

Khổng Tử thấy vậy, liền nói với học trò của mình: “Dùng đạo lý mà người khác nghe không hiểu để thuyết phục họ, thì chẳng khác gì bảo dã thú dâng làm vật tế thần, bảo chim muông nghe nhạc. Việc này là lỗi của ta, không phải lỗi của người nông dân kia”.

Sau đó Khổng Tử phái người chăn ngựa đi xin ngựa về.

Người chăn ngựa ngõ cửa nhà người nông dân, nói với người nông dân theo lý lẽ của mình: “Ông chưa bao giờ đến miền Đông làm việc đồng áng, tôi cũng chưa từng đến miền Tây, nhưng hoa màu ở hai nơi là giống như nhau, mà con ngựa thì đâu thể phân biệt được đó là hoa màu nhà ông, vậy nên mới ăn phải!”.

Người nông dân nghe xong thấy đúng là con ngựa vô tội, có trách thì phải trách người chăn ngựa. Mà người chăn ngựa lại đồng cảnh ngộ với mình, hai người ở hai miền khác nhau, tương ngộ tại đây quả đúng là hữu duyên. Vì thế nên đã đồng cảm bỏ qua, và trả con ngựa lại cho người chăn ngựa.

Sử dụng người là một loại trí tuệ, người ưu tú nhất cũng chưa chắc có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề. Một tập thể lớn mạnh không phải là sự tập hợp của những người giỏi nhất, mà là sự tổ hợp những người thích hợp nhất.

Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

Bí mật chôn giấu suốt 30 năm – “Tôi biết ai đã bắn phát súng ở sau lưng…”

Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ 2, một quân đoàn chiến đấu kịch liệt với quân địch trong rừng rậm, cuối cùng hai người lính đã mất liên lạc với đơn vị, lăn lộn trong rừng sâu. Và sau đó một chuyện đã xảy ra…

(Ảnh: Internet)

Hai người lính này sỡ dĩ trong lúc chiến đấu ác liệt vẫn có có thể chăm sóc lẫn nhau, hai bên không tách biệt, bởi họ đến từ cùng một ngôi làng nhỏ.

Họ khó khăn lặn lội trong rừng rậm, khích lệ và an ủi lẫn nhau. Hơn mười ngày đã trôi qua, họ vẫn chưa liên lạc được với đơn vị. Điều may mắn là, họ đã bắn chết một con nai, dựa vào số thịt nai đó, lại có thể gắng gượng được thêm mấy ngày nữa…

Xin hãy đọc tiếp ….

Một viên đạn từ sau lưng đã bắn bị thương người lính trẻ

Có lẽ vì chiến tranh, động vật trong rừng bỏ chạy tán loạn hoặc đã bị giết sạch, ngoài con nai đó ra, thì không còn tìm được bất kỳ con vật nào khác nữa, chỉ còn lại một ít thịt nai, được người lính trẻ tuổi hơn cõng trên lưng.

Một ngày kia, họ gặp phải quân địch, trải một phen ác chiến, hai người họ may mắn thoát được. Khi cả hai tạm tìm được chỗ an toàn, bỗng nghe thấy một tiếng súng vang lên, người lính trẻ đi phía trước bị trúng đạn, may mắn là chỉ bị thương ở bờ vai.

Người bạn đi cùng ở đằng sau hoảng hốt chạy đến, sợ hãi đến nỗi không nói nên lời, ôm lấy người bạn khóc mãi không thôi.

Buổi tối, người lính không bị thương kia cứ mãi nhớ nghĩ đến mẹ mình, hai hàng nước mắt nhỏ xuống hàng dài…

Hai người họ đều cho rằng mạng sống sắp kết thúc, mớ thịt nai bên cạnh chẳng buồn đụng đến.

Không gian lặng lẽ, chẳng lời nào thốt ra, mỗi người miên man theo dòng suy tư của riêng mình.

Người lính trẻ tuổi kia nói: “Tôi biết là ai đã bắn phát súng đó”.

Ngày hôm sau, chi đội đã tìm thấy họ.

30 năm sau, người lính bị thương kia nói: “Tôi biết là ai đã bắn phát súng đó, chính là người bạn đó của tôi. Anh ấy mất vào năm ngoái. Khi anh ấy ôm chầm lấy tôi, người tôi đã đụng phải nòng súng phát nhiệt của anh ấy. Nhưng buổi tối hôm đó tôi đã tha thứ cho anh ấy, tôi biết anh ấy muốn một mình chiếm giữ số thịt nai đó để có thể sống tiếp, tôi cũng biết anh ấy tiếp tục sống là vì để gặp lại mẹ của anh ấy.

Trong suốt 30 năm nay, tôi cứ làm bộ không biết chuyện này, cũng không hề nhắc đến nó…

Chiến tranh thật sự quá tàn khốc, mẹ của anh ấy đã không kịp đợi anh ấy trở về. Sau khi chiến tranh kết thúc, tôi và anh ấy cùng đi tế mộ của mẹ anh. Anh ấy quỳ xuống trước di ảnh của mẹ, cầu xin tôi tha thứ. Tôi đã ngăn anh ấy lại, không để anh ấy nói tiếp, chúng tôi vẫn là bạn thân của nhau hai mươi mấy năm, tôi không có bất cứ lý do để không tha thứ cho anh ấy”…

Một người có thể tha thứ cho sự cố chấp tự cho mình là đúng, ngạo mạn vô lễ, cuồng vọng vô tri của người khác cần phải có lòng bao dung rất lớn.

Những ai chịu không nổi những lời phỉ báng ác ý của người khác, bản thân họ cứ mãi vướng mắc với điều này, sau cùng chỉ có thể tạo thành tổn thương chí mạng cho bản thân mình.

“Lấy đức báo oán” nói ra rất đơn giản, nhưng thay vì nói là trở về với nhân từ, hòa ái và thiện lành, chi bằng hãy nói là tha thứ cho chính bản thân mình.

Cuộc sống thanh thản yên vui đến từ đâu đây?

Là đến từ: Nhẫn nhịn!

Phần lớn trong các mối quan hệ giữa người với người, đau khổ thông thường là đến từ những người thân cận mà ta tin tưởng nhất.

Nhưng vấn đề thật sự là: Dù cho mọi chuyện đã qua đi rất lâu, thì người bị hại vẫn luôn nhớ như in, nhiều lần hồi tưởng lại…. Thế là, khi ý thức tập trung trong đau khổ và oán hận, tự nhiên sẽ đánh mất đi khả năng nhìn về phía trước và thoát khỏi vũng lầy. Kết quả chính là để cho một lần sai lầm của người khác mà trừng phạt bản thân mình cả đời.

Đúng vậy, vì cớ gì mà lại không bỏ qua cho bản thân mình chứ?

Đọc đến đây, tin rằng bạn và tôi cùng đều có chung cảm nhận: Đây thật sự là một câu chuyện gây xúc động lòng người!

Đời người chẳng qua chỉ là mấy chục năm ngắn ngủi, chúng ta rốt cuộc nên phải sống như thế nào?

Có những người, hễ khi gặp phải một số chuyện, liền giam lỏng trái tim của mình trong “ngục tối”, suốt ngày mặt ủ mày chau, buồn khổ oán hận thấu trời, thậm chí sống không bằng chết…

Hết thảy sự việc và con người trên thế gian này, chỉ có một mục đích, chính là nhắc nhở chúng ta trở thành người có trí huệ hơn, có lòng bao dung hơn, có năng lực sáng tạo hơn.

Bỏ qua sai lầm của người khác, cũng là giải thoát cho bản thân mình

Chính như người lính trẻ trong bài viết, anh ta có thể tha thứ cho người bạn thân của mình ngay trong buổi tối hôm đó, chính ngay trong buổi tối hôm đó!

Nhìn bề ngoài thì là tha thứ cho người khác, nhưng trên thực tế là bỏ qua cho chính bản thân mình.

Đúng vậy, thật sự làm tổn thương chính bạn, thường không phải là bản thân sự tình, mà là cách nhìn của bạn đối với sự tình đó.

Thay vì ôm hận trong lòng, khiến bản thân đau khổ cả đời, chi bằng hãy buông nó xuống ngay!

Đời người vốn dĩ có thể tốt đẹp như vậy kia mà!

Cuối cùng hãy nhớ đến một câu nói:


Tin tưởng là gì?

Tin tưởng chính là dẫu khi bạn cầm súng bắn tôi, nhưng tôi vẫn tin chỉ là cây súng đó đã cướp cò.

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

Tấm bản thảo chưa đốt, câu chuyện về tình cha con gây xúc động lòng người

Một đời này thật sự rất ngắn ngủi, những điều tiếc nuối luôn tràn ngập trong sinh mệnh của chúng ta. Nếu như bạn không kịp nắm bắt, mỗi khi đêm khuya tịch lặng, đều sẽ cảm thấy ân hận…

(Ảnh: Internet)

Thi rớt đại học tựa như đã thua cả một đời

Khi còn học phổ thông, tôi đã say mê văn học, toàn bộ đầu óc đều là giấc mơ được trở thành một nhà văn, khiến cho thành tích học tập xuống dốc không phanh, cuối cùng không thi được vào trường cao đẳng mà đã kết thúc cuộc sống nhà trường của tôi.

Bố tôi đối với chuyện tôi thi rớt, trong lòng vốn cánh cánh không vui, bây giờ lại thấy tôi chơi bời lêu lổng, việc gì cũng không làm, cả ngày chỉ biết núp trong phòng sách vùi đầu viết viết vẽ vẽ, không những không kiếm được tiền, trái lại cứ cách vài ngày lại chìa tay ra xin ông tiền mua bút, mua giấy, mua bìa thư và tem, thì càng thêm bất mãn.

Ông thường lạnh mặt trên bàn ăn nói bóng nói gió với tôi rằng: “Con trai của chú Lưu đến xưởng lắp ráp xe hơi làm thợ hàn, mỗi tháng kiếm được mấy trăm đồng cho gia đình cơ đấy!”.

“Nhị Bảo nhà bác Tôn đi làm việc ở Quảng Đông, năm nay đã về nhà xây cất nhà cửa cho gia đình rồi!”

Mỗi lần như vậy, mẹ luôn nhìn tôi thở dài không nói năng gì cả.



Nhà chúng tôi nằm ở chỗ giao giới giữa thành thị và nông thôn, gia cảnh vốn không khá giả gì, đến nay vẫn sống trong một gian nhà ngói thấp bé chật hẹp.

Cha tôi là một nông dân trồng rau, mẹ thì mỗi ngày đều đi qua các con phố ngõ hẻm để rao bán rau củ nhà chúng tôi tự trồng.

Thu nhập của mẹ chính là tất cả chi phí sinh hoạt của cả nhà chúng tôi, kinh tế gia đình túng quẫn thế nào không cần nghĩ cũng biết được rồi.

Bố đã đốt bỏ ước mơ của tôi, cả đời này tôi sẽ không tha thứ cho ông

Một ngày mùa hè, khi tôi đang miệt mài sáng tác, trong bữa cơm sáng, bố tôi nói với tôi rằng:

“Công việc trong vườn rau chỉ dựa vào một mình bố thì thật sự là lo không xuể, hôm nay con hãy giúp bố cuốc cỏ ở mấy bờ ruộng, giữa trưa mặt trời khá nắng, cỏ cuốc lên rồi bị nắng phơi sẽ chết khô ngay thôi!”.

Lúc này, một bộ tiểu thuyết dài tập của tôi đang viết hừng hực khí thế, đối với những lời của ông tôi như để ngoài tai, ăn cơm sáng xong, tôi không có đi theo ông ra vườn rau, mà một mình đi vào trong phòng sách của mình, đóng chặt cửa phòng, lại vùi đầu vào việc sáng tác.

Đang viết đang viết một cách chăm chú, đột nhiên cửa phòng “ầm” một tiếng bị đá mở tung ra, bố tôi nổi giận đùng đùng xông vào, một tay ôm lấy một chồng bản thảo của tôi trên bàn, rồi đi xuống nhà bếp.

Đợi đến khi tôi lấy lại tinh thần, vội vàng chạy xuống nhà bếp, thì thấy bản thảo mà tôi vất vả viết hơn một năm trời đã hóa thành tro bụi.

“Viết này, viết này, tao để cho mày viết”, bố tôi vẫn còn chưa hả giận, cầm lấy khúc cây lật tung đống tro giấy bị cháy một hồi, vừa giậm chân quát mắng tôi.

Tôi không nói bất cứ lời nào, đôi tay nắm chặt lại, hai mắt nảy lửa nhìn ông, ngay lúc đó tôi nghĩ nếu như ông ấy không phải là bố của tôi, thì tôi thật sự sẽ xông lên liều mạng với ông ấy.

“Nếu như mày vẫn còn viết tiếp nữa, thì hãy cút ra khỏi nhà này ngay”, bố tôi nói câu này xong liền vác cuốc đi ra khỏi cửa.

Tôi tựa người vào bức tường, cảm thấy khắp người không còn chút sức lực, miệng khóc không thành tiếng.

Tôi nằm trùm đầu trên giường suốt hai ngày hai đêm, sáng ngày thứ ba, tôi đem những quyển sách và giấy nháp trên bàn hết thảy bỏ vào trong ngăn kéo, sau đó vác cuốc, cùng với bố đi ra vườn rau.

Từ đó về sau, tôi cũng không gọi một tiếng bố trước mặt ông ấy nữa. Tôi nghĩ suốt một đời này đều sẽ không tha thứ cho ông, không bao giờ.

Ước mơ của tôi, tự mình tôi kiên trì

Bố tôi lại đề xuất bảo tôi đi xưởng sữa chữa xe hơi học tập kỹ thuật sửa xe, tôi không nói lời nào liền đi ngay.

Trong xưởng sửa chữa xe hơi, người thầy dạy tôi là một người đàn ông trên năm mươi tuổi, lôi thôi và rất hà khắc.

Kể từ đó, tôi đã trở thành một người học nghề trong xưởng sủa chữa xe hơi, mỗi ngày trời vừa tảng sáng đã ra ngoài đi làm, bảy, tám giờ tối mới vác tấm thân mệt mỏi dính đầy dầu nhớt trở về nhà.

Tôi không hề than mệt than khổ, thậm chí còn làm ra vẻ vô cùng hăng hái. Bố và mẹ nhìn thấy tôi thay đổi mau chóng như vậy, bất giác đều vui vẻ mỉm cười.

Nhưng mà, dưới dáng vẻ bề ngoài trông như nghe lời đó, vẫn còn ẩn giấu một trái tim không an phận!

Mỗi ngày sau khi tan ca trở về, ăn cơm tối xong tôi liền lên giường đi ngủ thật sớm. Nhưng khi ngủ đến mười hai giờ đêm, vào lúc đêm khuya vắng lặng, tôi liền lặng lẽ bò dậy, khẽ bật đèn lên, ngồi trên bàn lặng lẽ viết ra bản thảo mà ban ngày tôi đã suy nghĩ xong. Mãi đến khi trời gần sáng, tôi mới vội vàng lên giường chợp mắt một chút.

Bởi không có tiền để mua bìa thư và tem, tôi đã dùng giấy trắng tự làm ra một số bìa thư, cho những bản thảo đã viết xong vào trong đó, viết xong địa chỉ, sau đó để vào ngăn kéo khóa lại, đợi đến nửa năm sau, khi nhận được tiền lương rồi mới gửi đi.

Cứ như vậy, thần không biết, quỷ không hay mà đã thực hiện được mấy tháng, trong ngăn kéo đã đựng đầy bản thảo chưa gửi đi. Nhìn thấy tác phẩm đắc ý mà mình vất vả cực khổ viết ra, đừng nói là xuất bản, ngay cả gửi đi cũng khó càng thêm khó, cảm giác trong lòng thật sự là một lời khó nói hết được.

Chính ngay tại lúc này, trong lòng tôi lần đầu tiên cảm thấy bi quan vô vọng, một mạch ba đêm liền, tôi đều không lấy được tinh thần để ngồi dậy sáng tác.

Tem thư từ trên trời rơi xuống

Chập tối ngày thứ tư, khi tôi tan ca trở về nhà, vừa khéo mẹ cũng đang gánh rau về đến nhà.

“Con xem, đây là cái gì này?”. Còn cách một quãng rất xa, mẹ liền phấn khởi gọi tôi, trong tay còn đang vẫy vẫy một tờ giấy nhiều màu sắc. Tôi đến gần xem thử, a, đó không phải là giấy, mà là một bản tem chẵn, ngang mười cái dọc mười cái, vừa tròn một trăm cái.

Tôi một tay nắm lấy tay của mẹ, xúc động hỏi rằng: “Mẹ, mẹ ở đâu có được nhiều tem như vậy?”



Mẹ vừa thả gánh rau xuống vừa nói: “Trưa hôm nay, mẹ gánh rau đi ngang qua bưu điện, nhìn thấy trên mặt đất có một tờ giấy hoa bị gió thổi đi, khi thổi đến trước mặt mẹ, mẹ tiện tay nhặt lên xem thử, thì ra là một bản tem. Chỉ là phía sau đã bị dơ rồi, không biết có còn dùng được nữa không?”.

Tôi vui mừng đến nỗi suýt nhảy cẫng lên, vội vàng nói: “Dùng được, dùng được”. Nhìn thấy bộ dạng vui mừng của tôi, mẹ nhoẻn miệng cười. Buổi tôi, ăn cơm tối xong tôi liền đóng chặt cửa phòng, đem tất cả số bản thảo còn chưa gửi đi đều dán tem lên đó, hơn nữa trước lúc đi làm vào ngày hôm sau tôi đã bỏ toàn bộ vào trong thùng thư.

Còn số tem không có dùng hết tôi cẩn thận cất giữ chúng đi, để dành cho những lúc cần đến. Đã có tem rồi, chính là đã có hy vọng thành công. Buổi tối ngày thứ hai, tôi lại lặng lẽ bò ra khỏi giường…

Lúc đầu, bố đã đốt bỏ tác phẩm của tôi. Bây giờ tôi sẽ chứng minh năng lực của tôi cho ông thấy. Chính ngay lúc tôi học nghề sửa xe hơi được gần nửa năm, tôi bỗng nhận được một lá thư của một trang tạp chí nào đó của Quảng Đông gửi cho tôi, mở ra xem thử, bên trong là ba quyển tạp chí mới tinh, trên ba quyển tạp chí này đều có in tên của tôi!

Thì ra là một bộ bản thảo tiểu thuyết gần trăm nghìn chữ của tôi đã được trang tạp chí này đăng liên tục trong ba tuần. Mấy ngày sau, tôi đã nhận được hơn 4.400 đồng tiền nhuận bút.

Cầm những quyển sách và tiền nhuận bút như vậy, tôi không sao ngăn được nỗi xúc động, nước mắt trào ra như suối.

Buổi tối, bố đến phòng sách của tôi, mặt ông mỉm cười: “Sách đâu rồi? Hãy để bố đọc thử tác phẩm của con nào!”.

Tôi nhìn ông ấy một cái, nhớ đến bộ mặt đáng ghét khi ông đốt bỏ bản thảo của tôi vào nửa năm trước, ngọn lửa uất hận trong lòng bất giác dâng lên: “Con đã đem chúng cất rồi, mấy ngày nữa hãy xem”.

Nhìn thấy bộ dạng run run thất vọng của ông ấy khi đi ra khỏi phòng, trong lòng thôi cảm thấy thật hả hê sung sướng.

Từ đó về sau, bố tôi đã trở nên im lặng ít nói hẳn đi.

Tiếp sau đó, tôi lại thuận lợi đăng tải mấy bộ tiểu thuyết trên mấy trang tạp chí tương đối có sức ảnh hưởng.

Một năm sau, chủ biên của một tạp chí Quảng Đông liên tục đăng tải tiểu thuyết của tôi đã viết một lá thư cho tôi nói chỗ của họ thiếu một người chuyện phụ trách biên tập tiểu thuyết, hỏi tôi có đồng ý đến Quảng Đông làm việc không. Tôi không ngăn được sự vui mừng, vội vàng gọi điện thoại cho ông ấy tỏ ý nhận lời.

Đi Quảng Đông làm việc cần phải mang theo giấy chứng minh, nhà tôi có một két sắt nhỏ chuyên để dùng đựng các loại giấy tờ. Tôi tìm được két sắt nhỏ này dưới gầm tủ áo, lấy giấy chứng minh của tôi ra, lại vô tình phát hiện dưới đáy cùng còn có một tờ biên lai của bưu điện.

Tôi khẽ lấy cầm tờ biên lai đó ra, chỉ thấy trên đó viết rằng: Mua một trăm con tem. Trong chốc lát, tôi đã hiểu ra tất cả, nước mắt của tôi bỗng trào ra, không tự chủ được tôi đã chạy đến ôm chầm lấy mẹ lúc ấy đang nhóm lửa nấu cơm ở dưới bếp, nghẹn ngào khóc không thành tiếng…

Người cha đã từng cản trở ước mơ của tôi

Lần này, đã không thể nào ngăn cản tôi được nữa. Một ngày trước khi tôi rời khỏi nhà, bố tôi bỗng ngã bệnh. Mẹ khuyên tôi ở lại vài ngày đã rồi hãy đi, nhưng tôi suy nghĩ một hồi, cảm thấy vốn không cần thiết phải như vậy, liền dứt khoát mang theo hành lý, đáp chuyến xe lửa thẳng xuống miền nam.

Sau khi đến làm việc ở tòa soạn ở Quảng Đông đó, thỉnh thoảng tôi nhận được thư nhà mà mẹ tôi nhờ hàng xóm viết gửi đến, trong thư luôn đề cập đến bệnh tình của bố tôi, nói bệnh tình của ông ngày càng nghiêm trọng hơn. Mẹ dặn tôi hãy dành thời gian về nhà thăm ông ấy một lần, nhưng tôi luôn lấy cớ công việc quá bận không có thời gian để cự tuyệt. Có lẽ là mẹ thấy tôi làm đến quá đáng như vậy, vậy nên có một đoạn thời gian rất lâu không còn viết thư cho tôi nữa.

Có một ngày, tôi bỗng nhận được một bưu phẩm do mẹ gửi đến, mở ra xem thử thì bất giác chết lặng, trong bưu phẩm chính là bản thảo được xếp ngay ngắn gọn gàng, đó chính là bản thảo bộ tiểu thuyết dài tập ngày trước đã bị bố tôi đốt mất.

Tôi ngẩn người ra, đây rốt cuộc là chuyện thế nào nhỉ? Vội vàng mở lá thư được kẹp trong bưu phẩm, chăm chú đọc. Lá thư là mẹ nhờ người khác viết:

“Con à, mẹ biết con nhất định là rất hận bố con, hận ông ấy không nên phản đối chuyện con viết sách, hận ông ấy không nên nhẫn tâm đốt bỏ bản thảo mà con đã phải vất vả lắm mới viết được, phải vậy không? Thật ra bố con vốn không hề đốt bỏ bản thảo của con.

Hôm đó, sau khi ông ấy ôm đống bản thảo của con vào trong nhà bếp, liền giấu nó ở dưới đống rơm, tiện tay đốt bỏ một quyển sách vụn. Sở dĩ bố con làm như vậy, vốn là muốn con cắt đứt hy vọng với việc sáng tác, sau đó sẽ bảo con đi học lấy một cái nghề, dùng nó yên phận lập thân mà sống tạm qua ngày”.

Thì ra người đã luôn ủng hộ tôi chính là người bố mà tôi căm hận bấy lâu nay

“Con lại cứ mãi hiểu lầm bố con, bởi vì ông ấy còn hiểu rõ hơn ai hết, nghèo khổ như nhà chúng ta đây, một là không có tiền để trải đường, hai là không có quan hệ để mở đường, huống hồ chi con chỉ là một học sinh chỉ học hết phổ thông, muốn làm nhà văn, quả thật khó như lên trời vậy. Ông ấy nhìn thấy con lãng phí quá nhiều sức lực, lãng phí quá nhiều tuổi thanh xuân, chi bằng hãy một dao chặt cho đứt, để con đoạn đứt suy nghĩ này, cho nên bố con mới nhẫn tâm mà…

Về sau, bố con đã đọc hết bộ bản thảo mà ông ấy cất đi, rồi cũng cảm thấy không thua kém gì so với tiểu thuyết của những các nhà văn nổi tiếng khác. Ông ấy mới cảm thấy có lẽ bản thân ông ấy đã sai khi ngăn cản ước mơ của con. Ông ấy đã bắt đầu cảm thấy ân hận. Nhưng may mà thông qua quan sát cẩn thận, ông phát hiện rằng con vốn không thật sự từ bỏ việc sáng tác, mà lại vận dụng một phương thức kín đáo hơn để tiếp tục ước mơ của mình.

Ông ấy cảm thấy mừng thay cho con,cũng âm thầm ủng hộ con, chiếc đèn nơi bàn học của con quá tối, ông ấy đã không nói không rằng mà thay một bóng đèn đủ sáng cho con, tấm kiếng trong phòng đọc sách của con bị vỡ, buổi tối gió lạnh cứ tạt vào bàn đọc sách của con. Ông ấy đã âm thầm thay một tấm kiếng mới.

Mãi đến một ngày, ông ấy đã vô tình mở ra ngăn kéo mà con quên khóa lại, khi phát hiện bản thảo đó của con ở trong ngăn kéo vì thiếu con tem mà không cách nào gửi đi được, ông ấy liền bảo mẹ đi mua một trăm cái tem về cho con, số tiền mua tem đó là số tiền bố con buổi tối đi bắt lươn tích cóp được…”

Đọc xong lá thư, tôi gần như chết lặng, ôm lấy chồng bản thảo đó, thì ra người âm thầm giúp đỡ tôi lại là người bố mà tôi căm hận bấy lâu nay, vậy mà tôi lại trách lầm ông ấy, lòng tôi khẽ gọi một tiếng bố, nước mắt không sao ngăn lại được.

Ngày hôm sau, tôi liền xin nghỉ phép, mang theo chút hành lý giản đơn cùng với hai bình rượu mà bố tôi thích uống nhất, đón thẳng chuyến xe về nhà.

Khi tôi về đến nhà, bố tôi đã bệnh nặng không thể chữa được nữa, mấy ngày sau ông đã ra đi mãi mãi.

Quỳ trước linh vị của ông, tôi hổ thẹn gọi tiếng: “Bố ơi!, những giọt nước mắt ân hận cứ tuôn ra mãi…

Một đời này thật sự rất ngắn ngủi, những điều tiếc nuối luôn tràn ngập trong sinh mệnh của chúng ta!

Nếu như bạn không kịp nắm bắt, mỗi khi đêm khuya tịch lặng, đều sẽ cảm thấy ân hận!

Hãy yêu thương người nhà của mình! Và nhớ hãy cho đối phương biết được tình cảm mà bạn dành cho họ.

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

Phiên tòa xét xử một vụ ăn trộm bánh mì ở New York năm 1935

Vào giữa thời kỳ Đại suy thoái ở Mỹ (kéo dài từ năm 1929 tới nửa sau thập niên 30), tại một nơi nghèo nhất trong thành phố New York, có diễn ra vụ xét xử một phụ nữ ăn trộm bánh mì vì đói.


Bức ảnh nổi tiếng thời Đại suy thoái ở Mỹ có tên “người mẹ di cư” của Dorothea Lange chụp năm 1936.

Một buổi tối lạnh lẽo tháng 1/1935, phiên tòa ban đêm đang được tiến hành tại một phường khó khăn nhất thuộc thành phố New York.

Một phụ nữ già và rách rưới được đưa đến, bà bị buộc tội ăn trộm một ổ bánh mì. Khuôn mặt bà u sầu, ẩn trong vẻ u sầu đó là một sự xấu hổ.

Quan tòa hỏi: “Bị cáo, có đúng là bà đã ăn trộm bánh mì không?”.

Người phụ nữ cúi đầu và lúng túng trả lời: “Đúng vậy! Thưa quan tòa, tôi thực sự đã ăn trộm bánh mì!”.

Quan tòa lại hỏi: “Động cơ ăn trộm bánh mì của bà là gì? Có phải vì đói khát không?”

“Đúng ạ!” Người phụ nữ ngẩng đầu lên, đôi mắt nhìn vị thẩm phán và nói: “Đúng là tôi đói. Con rể đã bỏ rơi gia đình, con gái tôi thì bị bệnh còn 2 đứa cháu nhỏ đang chết đói. Chúng đã mấy ngày hôm nay không được ăn rồi. Tôi không thể trơ mắt nhìn chúng chết đói được, chúng vẫn còn quá nhỏ!”.

Nghe người phụ nữ nói xong, mọi người xung quanh bắt đầu lầm rầm những tiếng bàn tán.

Tuy nhiên, người chủ cửa hàng nơi bị trộm bánh mì thì không đồng ý tha thứ. “Đây là một vùng kém an ninh, thưa Ngài,” ông nói. “Bà ấy phải bị trừng phạt để làm gương cho những người khác”.

Vị thẩm phán thở dài, nhìn về phía người phụ nữ và nói: “Bị cáo, tôi phải làm việc theo lẽ công bằng, chấp hành theo pháp luật. Bà có hai lựa chọn: nộp phạt 10 đô la hoặc chấp nhận bị giam 10 ngày”.

Thị trưởng của thành phố New York khi đó – ông Fiorello LaGuardia cũng có mặt và ông chính là vị thẩm phán trong buổi tối hôm đó. Khi đọc tuyên án trên, ông đồng thời cũng đưa tay vào túi, lấy ra một tờ tiền và thả vào chiếc mũ của mình. Ông nói lớn, “Đây là 10 đô la mà tôi sẽ trả cho án phạt này. Ngoài ra tôi phạt mỗi người trong phòng xét xử này 50 cent, đó là số tiền phạt cho sự thờ ơ của chúng ta khi ở cùng khu phố mà lại để cho một người phụ nữ phải đi ăn trộm bánh mì về nuôi cháu. Ông Baliff, hãy đi thu tiền và đưa tặng cho bị cáo”.

Ngày hôm sau, tờ báo thành phố New York đưa tin đã có 47,5 đô la được gửi đến cho người phụ nữ khốn khó kia. 50 cent trong đó là do người chủ cửa hàng tạp hóa đóng góp, ngoài ra còn có khoảng vài chục bị cáo khác đang chờ xét xử, và các cảnh sát có mặt khi đó, họ đều vinh hạnh được đóng góp 50 cent và đứng dậy vỗ tay nhiệt liệt.
Ngẫm

Về lý thuyết, một phụ nữ ăn trộm bánh mì bị phạt tiền đâu có quan hệ gì đến người khác? Vị Thị trưởng trả lời một cách minh bạch – đó là trả tiền cho sự lạnh lùng của chúng ta.

Ông nói: Giữa con người với con người không phải là không có mối quan hệ, con người đến thế gian này, với tư cách là một phần tử trong xã hội, là đã có khế ước (hợp đồng), tương tự như trong quan hệ lợi ích vật chất là có khế ước pháp lý, về giao lưu chia sẻ trong cuộc sống cũng có khế ước tinh thần.

“Lương thiện” không phải chỉ là một loại phẩm chất đối lập với sự lạnh lùng, gian trá, tàn nhẫn và tư lợi, mà còn là một loại khế ước về tinh thần.


“Lương thiện (lòng tốt) là một loại ngôn ngữ phổ quát của thế giới, nó có thể khiến cho người mù cảm nhận được và người điếc nghe thấy được”. – Mark Twain

Trong cuộc đời, ai cũng có thể gặp phải cảnh nguy nan khốn khó, ai cũng có thể trở thành kẻ yếu, nếu như chúng ta không giúp đỡ người khác trong lúc nguy cấp, ai có thể đảm bảo rằng mình sẽ không phải “nuốt trái đắng một mình?”.

Lòng người chỉ có hướng thiện mới có thể được ánh mặt trời chiếu rọi và “khế ước lương thiện” mới có thể tồn tại phổ biến trên thế giới này. Người hiểu được rằng phải quý trọng loại khế ước này chính là người cao quý. Người hiểu được rằng phải trả tiền cho sự thờ ơ là người sáng suốt. Xã hội đương thời quá lạnh lùng, nếu chúng ta không nhận thức ra và thay đổi, có lẽ chúng ta sẽ vì sự ích kỷ của mình mà phải trả giá thật nhiều!

Thứ Tư, 14 tháng 12, 2016

Có một kiểu tôn trọng, gọi là đóng cửa “sau 3 giây”

Có bao giờ bạn tự hỏi, sau tiếng sập cửa vô tình, người vừa đi khỏi nhà bạn sẽ có cảm thụ thế nào không? Có lẽ nhiều người đã từng ở trong tình huống này, và đều cảm thấy không được tôn trọng…

(Ảnh: Internet)

Có một kiểu tôn trọng, gọi là đóng cửa “sau 3 giây”

Nhà tôi có một cái máy giặt, lúc xả nước ra, nghe thấy tiếng lách cách, rất ồn. Nhân viên bảo trì đến mở ra xem, thì ra là có một một đồng tiền xu kẹt ở bên trong.

Lấy tiền xu ra xong, nhân viên bảo trì tiện tay vệ sinh máy giặt luôn, và nói rằng máy giặt sau một thời gian là phải làm vệ sinh, nếu không sẽ sinh ra vi khuẩn, vi khuẩn bám vào quần áo mặc vào sẽ không tốt cho sức khỏe.

Sau khi máy giặt được sửa xong, người thợ này mang thùng đồ nghề đi ra khỏi cửa, chào tạm biệt tôi rồi đi về.

Tôi không đóng cửa ngay lập tức, mà đứng vịn vào đầu cầu thang chờ cho đến khi anh ấy đi xuống hết cầu thang, rồi mới nhẹ nhàng đóng cửa vào.

Tại sao lại như vây?

Đóng cửa sau 3 giây, sẽ tạo cho người khánh cảm nhận được sự tôn trọng. Bởi vì nếu người khách vừa bước ra, từ phía sau nghe thấy phật một tiếng thì một cảm giác hụt hẫng sẽ lập tức xuất hiện.

Thói quen đóng cửa sau 3 giây này là thói quen tôi học được từ một vị khách hàng 3 năm về trước.

Lần đó bởi vì công việc khá gấp, nên cuối tuần tôi vẫn phải đến nhà khách hàng lấy một số tài liệu.

Khi chân tôi vừa mới bước ra khỏi nhà khách hàng, ở phía sau liền nghe thấy tiếng đóng cửa “phập”!

Tiếng động đó làm tôi thấy hụt hẫng…

Tôi tin rằng không phải là khách hàng cố ý, nhưng, cho dù nghĩ như vậy, thì việc đóng ở đằng sau tôi trong chớp nhoáng vẫn khiến tôi cảm thấy một sự lạnh lẽo.

Tôi liền cảm thấy có một kiểu tôn trọng gọi là “được tôn trọng”, lặng lẽ rời khỏi thân thể mình.

“Được tôn trọng” có những lúc là một thứ xa xỉ.

Điều giá trị nhất mà chúng ta cho đi, chính là sự tôn trọng

(Ảnh: Internet)

Nhà văn người Nga Ivan Sergeyevich Turgenev, có một lần vào một buổi chiều mùa đông, ông đi tản bộ ở khu vực gần nhà mình.

Đột nhiên có một người ăn mày lớn tuổi quần áo tả tơi, quỳ rạp xuống đất, chìa bàn tay vừa dơ vừa hôi về phía ông, nói: “Thưa ngài, ngài có thể cho tôi xin một chút đồ ăn được không ạ?”.

Ivan Sergeyevich Turgenev nhìn người ăn mày thân thể gầy yếu, rồi lục túi quần túi áo của mình xem có còn chút bánh quy hoặc bánh mì nào để cho ông lão này không.

Một lúc, ông mới nhớ ra là không có mang theo đồ ăn. Lúc đó ông cảm thấy thật có lỗi, khuôn mặt đỏ bừng cả lên.

Ông ngồi xổm xuống, nắm chặt bàn tay ông lão ăn mày, thành khẩn nói: “Ông bạn, thật xin lỗi, vì tôi không có chút đồ ăn nào để cho ông”.

Không ngờ, ông lão này liền lập tức đứng dậy, nắm lấy tay của Ivan Sergeyevich Turgenev, mặc dù nước mắt đã chảy trên tràn khắp khuôn mặt, nhưng ông vẫn mỉm cười trả lời: “Xin cảm ơn ngài, như thế này là đủ rồi”.

Từ trước đến giờ ông lão ăn mày này chưa bao giờ gặp được người tôn trọng ông như Ivan Sergeyevich Turgenev, không xa lánh ông, mà ai còn nắm tay ông gọi ông là “ông bạn”.

Vì thế, ông lão ăn mày nghĩ không có đồ ăn thì cũng không sao, tâm ý này với ông đã là đủ lắm rồi.

Thứ Hai, 12 tháng 12, 2016

Lời dạy thấm thía của người xưa: “Cơm rau dưa là phúc!”

Cuộc sống hiện đại, đồ ăn ngập trong hóa chất, ăn cái gì cũng nơm nớp lo sợ vì có thể bị ngộ độc. Ngẫm lại trước đây, trong mâm cơm chỉ toàn rau dưa, nhưng hóa ra đó lại là phúc.

Cơm rau dưa mới là phúc, cơm rau dưa mới là vui. (Ảnh: Internet)

Khi còn nhỏ, cuộc sống thật nghèo khó, quả thực ai trong chúng ta cũng từng thèm muốn được ăn thịt heo, thịt cá trong bữa ăn, dù chỉ là ít ỏi.

Vào niên đại 60, 70 của thế kỷ trước, vùng đất quê tôi bị nhiễm phèn nên chỉ có thể gieo trồng được một ít khoai lang, rau dưa nên khoai lang đã trở thành món ăn chính của người dân quê tôi.

Mùa xuân và mùa đông, mọi người lại lấy khoai lang khô nấu lên và ăn cùng với rau dưa cho đỡ đói. Thời điểm chuyển giao giữa mùa xuân và mùa hạ, thậm chí dân làng còn lấy những loại thực phẩm khó tiêu để ăn lót dạ cho qua ngày.

Cuộc sống bao năm đều là như thế, nhưng đại đa số thân thể của người dân quê tôi đều rất khỏe mạnh, hoàn toàn không nghe thấy có căn bệnh ung thư. Những bệnh như viêm đại tràng, đau bao tử…cũng thật sự hiếm thấy, chỉ là thân thể mọi người đều gầy gầy một chút mà thôi.

Sang niên đại 80, 90 của kế kỷ trước, tôi đã là một bác sĩ học tập ở nước ngoài trở về quê hương. Lúc này, tôi không chỉ thường xuyên ăn những bữa tiệc lớn xa hoa ở những nhà hàng sang trọng mà còn được đến những nơi nổi tiếng bậc nhất thành phố nơi tôi sinh sống để thưởng thức ẩm thực.

Nhưng thật kỳ lạ, thức ăn lúc ấy đều là thật chứ không phải hàng giả nhưng sau mỗi lần ăn thì một số người trong chúng tôi đều bị đau bụng. Bởi vậy mà khi đó tuy rằng đã thỏa mãn được dục vọng ăn uống nhưng lại khiến tôi và không ít người bạn của mình bị đau dạ dày.

Sau mỗi lần ăn tiệc, trong bụng luôn cảm thấy như có lửa đốt, cảm giác tựa như ăn một mâm ớt vậy, mãi cho đến khi nào loại bỏ sạch sẽ thì mới lấy lại được cảm giác thoải mái.

Cho đến một hôm, tôi có cơ hội được phỏng vấn một vị bậc thầy về nấu ăn mới hoàn toàn hiểu được những điều kỳ diệu trong ẩm thực.

Ông ấy nói với tôi rằng: “Tôi có một người bạn đồng nghiệp, bà ấy là người tu đạo, từng nói với các bạn và gia đình của bà một câu mà đến giờ tôi vẫn nhớ như in trong đầu: ‘Cơm rau dưa là phúc!'”.

Trầm ngâm một lát, ông lại nói: “Trên thế gian này, đồ ăn ngon thực sự không phải ở trong yến tiệc hoàng cung, cũng không phải ở nhà hàng sang trọng mà là nằm ở chỗ dân dã!”. Ngẫm lại những lời ông nói, thực sự đó đều là điều phi thường sâu sắc.

(Ảnh: Internet)

Sau khi cuộc sống của con người rơi vào tình cảnh ô nhiễm, thì hết thảy thực vật đều không còn thuần tịnh. Cho dù là hữu cơ hay vô cơ, khi mà không khí và đất đai bị ô nhiễm thì tất cả bản vị và hương vị của đồ ăn đều bị ảnh hưởng rồi. Hơn nữa, khi mà mọi người đều là vì cái lợi trước mắt nên thường xuyên “sáng tạo” ra những loại chất hóa học mới để cải biến thực phẩm, thì câu nói của người xưa: “Cơm rau dưa là phúc” lại càng ý nghĩa hơn.

Muốn giải quyết được triệt để vấn đề ấy, nhất định phải cải thiện từ phương diện đạo đức con người. Nếu như trình độ đạo đức của con người không đề cao lên thì xã hội loài người chỉ có thể ngày càng đi xuống, không thể làm ra được những món đúng vị như xưa.

Trong “Hoàng đế nội kinh” viết rằng, đồ ăn phải được phối hợp hợp lý mới có thể khiến thân thể khỏe mạnh, tinh lực dồi dào. Bởi vậy có thể thấy được rằng, ngũ cốc, hoa quả xưa nay chính là thức ăn chủ yếu của con người. Con người mấy ngàn năm qua, đều dựa vào đồ ăn mà lớn lên. Nếu cẩn thận quan sát hình dạng của răng, chúng ta cũng đều biết con người không phải ăn thịt là chính mà rau và ngũ cốc mới là đồ ăn chủ yếu của con người.

Nói rằng, cơm rau dưa là vui nhưng kỳ thực cũng không phải có ý nói rằng mỗi ngày đều ăn cơm với rau dưa, mà là muốn nói lên một loại tâm thái “thanh tâm quả dục” (tâm tính thanh cao, đạm bạc, tiết chế ham muốn, dục vọng), cuộc sống đạm bạc, không sa đà vào những vật chất xa xỉ.

Con người không chỉ ở ham muốn danh lợi, tiền tài là cần biết tiết chế mà ở phương diện ẩm thực cũng phải biết tiết chế. Ẩm thực chỉ nên ăn bảy phần nóng, tám phần no, biết đủ thường vui. Cho nên, trong cuộc sống nên nhớ kỹ, “cơm rau dưa thực sự là phúc, cơm rau dưa là đủ!” thì tâm thái, tinh thần mới luôn thanh tao và ngủ mới tròn giấc!

Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Bốn mẩu chuyện thức tỉnh trái tim triệu con người


Cuộc sống là một bức tranh muôn màu muôn vẻ, với rất nhiều những cung bậc cảm xúc khác nhau, cũng là một chuỗi triết lý để ta suy ngẫm. Bốn câu chuyện dưới đây thức tỉnh sâu sắc tới tâm hồn mỗi người.

(Ảnh: Internet)

Câu chuyện thứ nhất: Duyên nợ đời người

Ngày xưa, có một chàng trai tên Thư Sinh, anh và người yêu đã đính ước và chuẩn bị cử hành hôn lễ. Thế nhưng trước đó ít ngày, cô gái ấy lại đi lấy người khác. Thư Sinh bị đả kích mạnh và lâm bệnh nặng.

Anh ta đau khổ nên tìm lên chùa và hỏi 1 vị sư thầy: “Tại sao con yêu cô ấy nhiều như thế mà cô ấy vẫn đi lấy người khác?”

Sư thầy mỉm cười và cho anh chàng xem một chiếc gương. Trong đó có hình ảnh một cô gái không mảnh vải che thân nằm chết bên đường.

Người đầu tiên đi qua cũng chỉ thoáng nhìn, lắc đầu rồi đi. Người thứ hai đi qua cởi chiếc áo khoác và đắp lên người cô gái. Người thứ ba đi qua bèn đào hố và đắp mộ cẩn thận cho cô gái. Sư thầy cho biết, người con gái xấu số đó chính là bạn gái của anh ta ở kiếp này.

“Anh là người qua đường thứ hai, đã từng đắp cái áo cho cô gái. Đến nay, cô gái gặp và yêu anh chỉ là để trả nợ ân tình cho anh thôi. Còn người mà cô ấy phải báo đáp cả đời đó chính là người đã chôn cất cô cẩn thận, người đó chính là người chồng hiện tại của cô ấy”.

Thư Sinh nghe xong liền tỉnh ngộ ra mọi chuyện.

Câu chuyện thứ hai: Đừng đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài

Có một bà mẹ đơn thân nọ vừa mới chuyển nhà, bà ta phát hiện hàng xóm là một gia đình nghèo khó, gia đình đó có một bà mẹ góa chồng và hai đứa con. Có một hôm mất điện, bà ta đành phải thắp nến lên cho sáng.

Một lúc sau, có tiếng người gõ cửa. Bà ra mở cửa, thì ra đó là con của nhà hàng xóm. Đứa bé hỏi: “Con chào dì, dì cho con hỏi nhà dì có nến không ạ?”.

Bà ta thầm nghĩ: “Cái gia đình này nghèo đến nỗi ngay cả nến cũng không có sao? Tốt nhất không cho, cứ như thế họ sẽ ỷ lại mất”.

(Ảnh: Internet)

Nghĩ rồi, bà liền nói to một tiếng: “Không có!”. Đúng lúc bà ta đang chuẩn bị đóng cửa, đứa bé đó liền cười rạng rỡ và nói: “Con biết ngay là nhà dì không có nến mà!”.

Nói xong, đứa bé liền lấy ra hai cây nến: “Mẹ và con sợ dì sống một mình không có nến nên con đem sang tặng dì hai cái để thắp sáng ạ!”.

Lúc này, bà ta vừa tự trách bản thân, vừa cảm động rơi nước mắt, sau đó liền ôm chặt đứa bé vào lòng.

Câu chuyện thứ ba: Chúng ta chỉ bất tiện có ba tiếng thôi

Ngày hôm đó, tôi may mắn đặt được vé về quê ngoại cùng với chồng, nhưng sau khi lên xe thì nhìn thấy có một quý cô đang ngồi ở vị trí của chúng tôi. Chồng tôi bảo tôi ngồi ở cạnh vị nữ sĩ đó nhưng lại không mời bà ấy nhường chỗ.

Tôi phát hiện ra chân phải của bà ấy có chút trở ngại, lúc đó tôi mới hiểu tại sao chồng tôi lại làm như thế. Chồng tôi cứ đứng như thế suốt dọc đường về mà không hề có ý định lấy lại chỗ ngồi.

Sau khi xuống xe, tôi nói với giọng điệu của một bà vợ xót chồng: “Nhường chỗ là việc nên làm, thế nhưng đoạn đường xa như thế sao không nói bà ấy đổi vị trí cho mình chứ”.

Chồng tôi đáp: “Người ta bất tiện cả đời rồi, còn mình chỉ bất tiện có ba tiếng thôi mà!”.

Nghe chồng nói vậy, tôi vô cùng xúc động. Có được một người chồng vừa tốt bụng vừa lương thiện như thế, tôi thấy rằng cả thế giới này đều trở nên ấm áp hơn nhiều. Tâm niệm thay đổi, thế giới hình như cũng vì thế mà thay đổi theo.

Có thể chúng ta sẽ không thành công trong ba phút nhưng đôi lúc chỉ cần mất đi một phút, số mệnh con người sẽ hoàn toàn khác nhau.

Câu chuyện thứ tư: Câu chuyện về luật nhân quả

Vào một đêm muộn đầu xuân, mọi người đều đã ngủ say, có một đôi vợ chồng cao tuổi bước vào một khách sạn, đáng buồn là khách sạn đó đã hết phòng.

Nhân viên lễ tân không đành lòng để cho cặp vợ chồng đó lại đi tìm khách sạn, anh ta liền dẫn họ vào một căn phòng: “Có thể đây không phải là căn phòng tốt nhất nhưng ít nhất hai bác cũng không phải chạy đi tìm phòng nửa đêm nữa”. Cặp vợ chồng thấy căn phòng được dọn dẹp sạch sẽ nên quyết định ở lại đó.

(Ảnh: Internet)

Ngày thứ hai, khi họ thanh toán, nhân viên lễ tân đó liền nói: “Hai bác không cần thanh toán đâu ạ, vì căn phòng hai bác ở đó là phòng của cháu. Chúc hai bác có một hành trình du lịch vui vẻ ạ!”.

Thì ra, nhân viên lễ tân đó đã ngủ một đêm tại quầy bàn để nhường phòng cho họ. Cặp vợ chồng hết sức cảm động và nói: “Chàng trai trẻ à, cậu là nhân viên lễ tân khách sạn tốt nhất mà chúng tôi từng gặp đấy. Cậu nhất định sẽ được đền đáp”. Chàng trai liền cười tiễn cặp vợ chồng ra cửa và rồi nhanh chóng quên đi chuyện hôm đó.

Bỗng có một ngày, anh ta nhận được một bức thư, trong đó có một tấm vé đi du lịch New York một mình, chàng trai đi đến một căn biệt thự trang hoàng theo như chỉ dẫn trong thư. Thì ra, hai người mà anh ta tiếp đón trong đêm muộn hôm đó chính là một nhà tỷ phú cùng với vợ của ông ấy. Ông ấy đã mua tặng chàng trai một tiệm rượu lớn sau đó giao cho anh quản lý.

Thực ra nhân quả đều do mỗi người nắm giữ, khi chưa xác định được mục tiêu vĩ đại của đời người thì hãy dùng tấm lòng của mình để làm việc gì đó. Mỗi một cá nhân đều là một nhân viên phục vụ, những điều lớn lao đều bắt nguồn từ việc chúng ta phục vụ cho người khác, khả năng một người phục vụ cho người khác lớn bao nhiêu thì kết quả chúng ta có được càng lớn bấy nhiêu.

Sống trong đời cần phải trải nghiệm nhiều. Trên đường đời, chúng ta có thể có tiếng cười sảng khoái, nhưng cũng có thể có cả những giọt nước mắt khổ đau; trên đường đời, có niềm tin từ sự thành công, cũng có thức tỉnh từ sự thất bại, nhưng chúng ta đều phải biết quý trọng.

Sự giàu có của đời người đến từ một trái tim vô tư, không ích kỉ; cái tốt đẹp của cuộc đời đến từ một trái tim giản dị. Trên đường đời không cần điều gì cao quý, chỉ cần làm việc bằng một trái tim chân thực là đủ.

Nếu muốn có được những người bạn tốt, trước tiên bạn phải đối tốt với người khác.

Nếu muốn được vui vẻ, hạnh phúc, trước tiên bạn hãy mang hạnh phúc đến cho người khác, không lâu sau bạn sẽ nhận thấy bản thân càng ngày càng hạnh phúc.

Yêu người, yêu cuộc đời, cho yêu thương, nhận yêu thương và rồi…trưởng thành trong tình yêu thương!.

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

Làm người, cần phải ghi nhớ bài học “nước đổ khó hốt”


Người xưa có câu: “Nước đổ khó hốt, gương vỡ khó lành”. Mỗi lời nói ra, mỗi sự việc đã ngã ngũ, cũng giống như bát nước hắt đi, thật khó lòng thu hồi về được nữa…

Nước đổ khó hốt, gương vỡ khó lành. (Ảnh: Internet)

Trong “Hán thư – liệt truyện đệ tam thập tứ” có một câu chuyện kể rằng:

Chu Mãi Thần tự là Tử Ông, người Hội Kê đất Ngô. Ông yêu thích đọc sách, không giỏi kinh doanh, bởi vì gia cảnh bần cùng, ông thường xuyên phải đốn củi kiếm sống.

Một lần, Chu Mãi Thần vác một bó củi khô, vừa đi vừa đọc thơ văn. Thê tử của ông lưng cũng vác một bó củi, đi theo phía sau, mấy lần ngăn cản không muốn ông đọc thơ trên đường, nhưng mà ông ngược lại càng cao giọng đọc. Vợ ông cho đó là việc nhục nhã nên đòi ly hôn.

Chu Mãi Thần cười nói: “Ta đến 50 tuổi hẳn sẽ phú quý, hiện tại đã hơn 40 tuổi rồi. Nàng theo ta chịu nhiều khổ cực như vậy, đến khi đó nhất định ta sẽ báo đáp nàng”.

Vợ của ông oán hận nói: “Người giống như ông vậy, tôi chỉ sợ cuối cùng sẽ chết đói trên đất trong rãnh, làm sao có thể phú quý chứ?”.

Thời gian sau đó, Chu Mãi Thần thật sự giữ không được vợ, đành phải để nàng ta tái giá.

Về sau, Chu Mãi Thần một thân một mình lưng vác củi, ở trên đường vừa đi vừa đọc thơ. Có một lần ông đi qua một nghĩa địa, vừa hay nhìn thấy vợ mình cùng với chồng mới của nàng đang viếng mộ ở chỗ đó, thân mặc áo gấm, có vẻ rất giàu sang. Hai vợ chồng họ thấy Chu Mãi Thần vừa đói vừa rét, bèn đưa chút thức ăn cho ông.

Thời gian trôi qua, Chu Mãi Thần tiếp tục ra sức học hành thi cử, cuối cùng đã đỗ đạt, được nhậm chức Thái Thú Hội Kê. Quan viên ở địa phương đó nghe nói tân Thái Thú sắp tới nhậm chức, liền tổ chức cho dân chúng quét dọn đường sá sạch sẽ để tiếp đón. Quan lại cả huyện đều tới nghênh đón, có tới cả trăm cỗ xe.

Chu Mãi Thần trở về đất Ngô, bỗng nhìn thấy người vợ trước của mình cùng chồng giờ đây đã trở nên nghèo khổ, cũng đang quét dọn trên đường. Ông bèn dừng lại, ân cần mời hai người họ ngồi lên phía sau xe, cùng đi về dinh Thái thú. Sau đó, Chu Mãi Thần sắp xếp cho vợ chồng họ chỗ ở ổn định trong hoa viên, hàng ngày tiếp đón thức ăn nước uống rất chu đáo, lấy đó làm việc báo đáp ân nghĩa xưa.

Không ngờ, người vợ này ở chưa được một tháng, trong lòng cảm thấy hối hận và xấu hổ, cuối cùng không chịu nổi đã phải tự tử. Chu Mãi Thần đành buồn bã, đưa cho chồng của nàng ta một ít tiền để lo việc an táng.

Về sau, Chu Mãi Thần cho triệu tập những người trước đây mà ông từng mang ơn, hết thảy đều báo đáp rất tận tình.

Lý Bạch từng có bài thơ rằng:

Hội kê ngu phụ khinh mãi thần,

Dư diệc từ gia tây nhập tần.

Ngưỡng thiên đại tiếu xuất môn khứ,

Ngã bối khởi thị bồng hao nhân!

Tạm dịch nghĩa:

Nhớ chuyện người đàn bà ngu ở Hội Kê đã khinh rẻ Chu Mãi Thần,

Ta cũng từ giã nhà như họ Chu đi tây vào đất Tần.

Ngửa mặt trông trời cười lớn,

Đời ta há như loài cỏ dại!

Cũng từ đó “Hội kê ngu phụ” (người phụ nữ ngu muội ở Hội Kê) – tên gọi người vợ Thôi thị của Chu Mãi Thần, đã được dân gian lưu truyền rộng rãi. Đây là một cách nói châm biếm dành cho những người lòng dạ đổi thay, tiểu nhân bợ đỡ. “Chu Mãi Thần bỏ vợ” cũng trở thành một cái tên kinh điển của những vở diễn hí kịch sau này.

Người xưa nói “Nhất nhật phu thê bách nhật ân”, một ngày là vợ chồng trăm ngày ân nghĩa. Giữa vợ chồng vốn phải tương trợ lẫn nhau, cùng vượt qua những cửa ải khó khăn, những sóng gió trong cuộc đời. Nhưng câu chuyện về vợ chồng Chu Mãi Thần lại khiến người ta không khỏi thở dài buồn bã.

Những chuyện tương tự giống như vậy, xưa nay đều không ít. Chỉ tiếc rằng, thuận theo thời thế đổi thay, “Chu Mãi Thần” càng ngày càng ít, mà “vợ của Chu Mãi Thần” lại càng ngày càng nhiều.

Bởi con người ngày nay dường như chỉ chạy theo lợi ích vật chất trước mắt, tiền tài danh vọng làm che mờ tất cả; khổ một chút là không chịu được, liền sẽ buông xuôi, tình nghĩa cũng chẳng còn. Đợi cho đến khi sẩy chân rơi xuống nước, mới có thể tỉnh ngộ, thì đáng tiếc là đã muộn mất rồi! Quả đúng là kiểu người như Thôi thị, vợ của Chu Mãi Thần vậy.

Dân gian còn có lưu truyền rằng, Chu Mãi Thần sau khi áo gấm về làng thì Thôi thị mang hi vọng muốn cùng ông gương vỡ lại lành, nhưng đã bị ông cự tuyệt. Chu Mãi Thần đem một bát nước đổ xuống mặt đất, rồi bảo Thôi thị thu hồi lại. Cũng từ đó mà có câu thành ngữ “nước đổ khó hốt”.

Bát nước đổ đi rồi khó mà thu hồi lại được. Thân người khó được, một khi đạo đức sa đọa rồi, lúc đó chẳng phải như “nước đổ khó hốt” sao?

Vậy nên, mỗi chúng ta đều phải ghi nhớ lời giáo huấn “nước đổ khó hốt”.

Thứ Hai, 5 tháng 12, 2016

Bà cụ buôn bán lỗ suốt 55 năm, nhưng khi mất, hàng nghìn người tiễn biệt

Thời đại vật giá leo thang, chỉ với 6 ngàn đồng thì liệu có thể mua được thứ gì? Thế nhưng, có một quán ăn vẫn duy trì mức giá 6 ngàn đồng một suất cơm trong suốt 55 năm. Đây là câu chuyện về tấm lòng lương thiện của bà lão 96 tuổi gây xúc động lòng người.

Câu chuyện về hàng cơm 6 ngàn của bà cụ 96 tuổi gây xúc động lòng người. (Ảnh: Internet) 


“Bà ơi, bà xúc cho con nhiều thế!”


“Đừng vội, đừng vội. Ăn là phải ăn no. Ăn no là được rồi”.


Thế rồi bà xới cho vị khách trẻ một tô cơm đầy, vài miếng cá, miếng thịt, rau củ đầy ắp đĩa.


Nhưng tô cơm của bà lại chỉ có giá… 6 nghìn đồng (tương đương 10 Đài tệ)


Anh thanh niên mắt chữ O miệng chữ A nhìn bà.


Anh thanh niên lớ ngớ đó chính là tôi…


Nhưng không chỉ với tôi, cảnh tượng này vẫn diễn ra hàng ngày: Người ta thả vào trong ống sắt của bà vài nghìn đồng, và bà sẽ cho người ta bữa cơm thịnh soạn như vậy.

(Ảnh: Internet) 


Sẽ có người thắc mắc: “Đồ ăn rẻ như vậy, bà cụ có thể có lãi sao?”


Xin cho bạn biết rằng: “Chắc chắn là không thể!”.


Đến vốn còn chẳng đủ, sao có thể có lãi đây?


Vậy mà hàng cơm nhỏ này cũng đã ở đây 55 năm rồi…


Cũng sẽ có người thắc mắc: “Vậy thì bà cụ này rốt cuộc là ai? Tại sao tuổi đã cao như vậy rồi mà vẫn còn làm công việc thua lỗ nhiều như thế?”.


Kỳ thực bà không phải là nhân vật có tiếng tăm nào cả. Bà chỉ là một người phụ nữ bình thường, mang trái tim nhân hậu và tâm hồn lương thiện mà thôi.


Hàng tháng, bà phải sống dựa vào tiền trợ cấp của chính phủ. Có những lúc bà còn phải đi vay thêm tiền để có thể duy trì quán cơm và để nó luôn được mở ra mỗi ngày.

Cụ bà Trang Chu Ngọc Nữ, sống tại Cao Hùng, Đài Loan. (Ảnh: Internet) 


Bà cụ ấy tên là Trang Chu Ngọc Nữ. Năm 16 tuổi, bà lấy chồng và chuyển đến thành phố Cao Hùng. Không lâu sau chồng bà đi lính, một mình bà chật vật với đứa con thơ nơi thành phố lớn.


Đang lúc khốn khó nhất, không có nơi để trú ngụ, bà được một vài công nhân cưu mang.


Những người công nhân lúc đó cũng chẳng khá giả gì, mỗi ngày làm việc từ sáng tới tối, vậy mà chỉ kiếm được chút tiền ít ỏi, nhưng vẫn đùm bọc lẫn nhau, quan tâm mẹ con bà.


Bà kể, lúc đó bà thực sự đã hiểu được thế nào là tình người quý giá. Bà mang trong tâm ân huệ đối với những người công nhân đó.


Chồng bà đi lính trở về, cuộc sống hai vợ chồng trở nên khá hơn. Bà tìm về nơi những người ân nhân ở để trả ơn, nhưng họ chỉ nói rằng họ sẽ không nhận chút tiền nào của bà cả. Họ hoàn toàn làm việc ấy mà không mong tới sự hồi báo.


Từ đó, bà mỗi ngày đều nấu cơm rồi mang tới cho họ. Tất nhiên đều không nhận tiền mà họ trả.


Thế rồi bà nhận thấy rằng, tất cả những người công nhân ở khu lao động ấy đều hàng ngày đi sớm về muộn, bữa cơm ăn rất dè sẻn, vừa không được nóng hổi, lại ăn không đủ no. Có những người không đủ tiền để kiếm một chỗ ở tử tế.


Vậy là bà chia ngôi nhà của mình ra thêm 7 căn phòng nhỏ, và cho những người công nhân ở miễn phí. Đồng thời, bà mở một sạp cơm nhỏ, mỗi suất cơm chỉ thu có vài nghìn đồng.


Cho đến tận bây giờ, giá của những suất cơm đó cũng chỉ có vỏn vẹn 6 nghìn đồng.


Tấm lòng của bà cụ khiến nhiều người không khỏi xúc động. (Ảnh: Internet) 


Tôi hỏi bà: “Cái ống sắt đựng tiền bà để ở đây, nếu có ai lấy đi thì sao?”


Bà cười bảo rằng chưa ai lấy của bà cả.


Thoáng chốc bà cũng làm công việc này được 55 năm rồi. Càng ngày càng có nhiều người đến đây ăn, cả những người có điều kiện hơn bà cũng tới mua mang về, có người chỉ có 2, 3 nghìn, có người không có tiền, bà cũng vẫn bán cơm cho họ như những người khác.


Bà thường hay vẫy vẫy tay với họ và bảo: “Này anh, ăn không đủ no thì cứ bảo tôi xới thêm nhé”.


Có người bảo bà buôn bán như vậy, thật là ngốc, không biết tính toán!


Bà cũng chỉ cười chẳng nói gì.


Vậy mà bà cũng chỉ coi việc làm của mình vẫn còn nhỏ bé lắm. Bà chỉ mong mọi người ăn đủ no, có chỗ để che mưa che nắng, bởi vì bà đã từng trải qua hoàn cảnh đó rồi, rất khổ, rất khổ.


Những người công nhân ở đó coi bà như người thân của mình. (Ảnh: Internet) 


Những người công nhân ở đó coi bà như người thân của mình. Họ lấy vợ cũng có bà phụ giúp việc cưới xin, ốm đau cũng có bà chăm sóc.


Việc làm của bà, nếu là một người bình thường thì sẽ khó có thể thấu hiểu được. Làm việc không cần hồi đáp đã đành, bà còn làm trọn cả một đời người. Họ có thể không hiểu bà, nhưng tất cả đều khâm phục bà.


Bà nói bà muốn giúp đỡ họ một tay thôi.


Nhưng người phụ nữ ấy… đã giúp tới 55 năm rồi.


Bà thường dạy cháu gái: “Nếu có cơ hội hãy giúp đỡ người khác. Cơ hội đó là phúc đức tu được mấy đời cháu ạ”.


Bà coi việc giúp đỡ người ta là phúc của mình, chứ không phải để tích phúc tích đức.


Đến gần khi nhắm mắt xuôi tay, bà nằm trên giường, trong tâm lúc nào cũng lo không biết những người công nhân ăn có đủ no không. Bà mất đi rồi ai sẽ lo cho họ?

(Ảnh: Internet) 


Bà hưởng thọ 96 tuổi. Khi bà ra đi… hơn 2.000 người tới đưa tiễn bà. Những ông cụ râu tóc bạc phơ cũng khóc thương tiếc nuối bà. Quan chức địa phương cũng đến, dâng bà vòng hoa tưởng nhớ. Mọi người đều gọi bà một tiếng: “A ma” – Nghĩa là, tất cả đều coi bà như người mẹ thứ hai của mình.


Có thể bạn không có năng lực làm thay đổi thế giới…


Nhưng chỉ một bát cơm nóng có thể sưởi ấm trái tim mỗi người…


Chỉ một việc tốt nhưng có thể làm người ta cảm động rơi lệ… mà trở nên tốt hơn.


Thế giới này, nếu ai cũng muốn hành thiện, ai cũng có thể biết nghĩ cho người khác, thì tôi nói rằng nó sẽ thật tươi đẹp!

Chủ Nhật, 4 tháng 12, 2016

Ở đời, chớ đấu danh với quân tử, đấu lợi với tiểu nhân và đấu khôn khéo với trời đất

Con người sống thường hơn thua nhau khẩu khí, trước những mâu thuẫn gặp phải thì luôn là ‘người đối xử tệ với ta một, ta trả lại gấp đôi’. Kẻ sỹ, đối với việc tranh đoạt ở trên đời, có 3 việc không bao giờ động tới.


Ở đời, chớ đấu danh với quân tử, đấu lợi với tiểu nhân. (Ảnh: Internet)

Lúc Tăng Quốc Phiên vừa nhận chức ở Hàn Lâm Viện, ông là cấp dưới của Triệu Tiếp. Một lần nhân cơ hội cha mẹ vào kinh, Triệu Tiếp muốn gửi thiếp mời các đồng sự đến tham dự tiệc. Tăng Quốc Phiên không quen mắt với cách làm “mượn cơ hội” này nên đã từ chối không đi. Triệu Tiếp thấy vậy, trong lòng vô cùng bất mãn.

Sau này, Tăng Quốc Phiên được thăng mấy cấp, làm chức quan cao hơn cả Triệu Tiếp, Triệu Tiếp càng bất mãn hơn, nhưng cũng chỉ có thể để ở trong lòng mà thôi.

Về sau, Tăng Quốc Phiên bị người khác hãm hại buộc tội, thậm chí bị giáng hạ chức và lại trở thành thuộc hạ của Triệu Tiếp. Không những thế, Tăng Quốc Phiên cả đời còn bị bệnh nấm ngoài da.

Đợt ấy, ông bị bệnh phát tác, đau đớn đến mức không thể ngồi lâu được. Ông liền đi gặp cấp trên xin phép nghỉ ở nhà hai ngày. Triệu Tiếp mãi mới đợi được đến ngày có cơ hội báo thù, nên đương nhiên sẽ không dễ dàng bỏ qua.

Ông ta lên mặt răn dạy Tăng Quốc Phiên: “Ông vừa mới bị giáng chức vài ngày thì lại xin nghỉ phép, có phải là khinh thường bản quan không? Lời xin phép của ông, ta không đồng ý”. Tăng Quốc Phiên bất đắc dĩ đành phải vừa đau ốm vừa làm việc.

Kể từ lúc Tăng Quốc Phiên bị giáng chức, chỉ cần có cơ hội là Triệu Tiếp sẽ răn dạy Tăng Quốc Phiên một phen. Hơn nữa, ông ta còn đi khắp nơi nói xấu ông với đồng nghiệp, nhưng Tăng Quốc Phiên trước sau đều không đấu lại.

Về sau, Tăng Quốc Phiên được thăng chức lên làm quan nhị phẩm. Ông được ban cho chiếc kiệu tám người khiêng gọi là Lục Ni kiệu, nhưng ông vẫn luôn luôn tiết kiệm, khiêm tốn, không muốn cao ngạo. Vì thế, ông quyết định dùng chiếc Lam Ni kiệu, là chiếc kiệu bốn người khiêng như trước đây.

Theo luật lệ, ở bất cứ nơi đâu, người ngồi trên kiệu bốn người khiêng khi nhìn thấy người ngồi trên kiệu tám người khiêng thì đều phải cung kính nhường đường. Nếu không tuân thủ, thì chủ nhân của chiếc kiệu bốn người khiêng sẽ bị đánh đòn.

Lần ấy, Tăng Quốc Phiên ngồi trong Lam Ni kiệu để đi ra ngoài. Khi kiệu của ông đi đến một ngõ nhỏ chật hẹp thì thấy ở phía sau, một chiếc Lục Ni kiệu cũng đang đi tới. Ở vào tình huống này, Tăng Quốc Phiên có thể không cần phải nhường đường. Nhưng Tăng Quốc Phiên vẫn sai người hầu đi sát sang một bên, để cho chiếc kiệu phía sau đi lên trước. Nhưng ngay cả đã đứng sát sang một bên rồi thì chiếc kiệu phía sau vẫn không thể qua được.

Người nâng Lục Ni kiệu thấy thế, thúc ngựa chạy đến, không nghe lời phân trần, kéo rèm kiệu ra, bắt Tăng Quốc Phiên và tát vào mặt ông hai cái rất mạnh.

Nhưng người ngồi trong Lục Ni kiệu kia lại chính là một vị quan tam phẩm, so với Tăng Quốc Phiên thì còn thấp hơn một cấp. Vị quan tam phẩm vén rèm nhìn thấy Tăng Quốc Phiên, sợ hãi quá, chạy vội đến chỗ ông, quỳ gối, dập đầu nhận lỗi.

Tất cả mọi người lặng im chờ Tăng Quốc Phiên phân xử. Họ cho rằng, Tăng Quốc Phiên sẽ tát hai cái như trời giáng vào mặt vị quan tam phẩm là coi như sự tình được giải quyết xong.

Nhưng không ngờ, Tăng Quốc Phiên nâng vị quan tam phẩm dậy và nhẹ nhàng nói: “Quả thực là kiệu của ta đã cản đường đi của đại nhân, đại nhân hãy lên kiệu, gấp rút lên đường mới là việc quan trọng hơn”.

Mọi người ai nấy đều sững sỡ thầm nghĩ: “Quan nhị phẩm bị quan tam phẩm tát cho hai cái như trời giáng vậy mà vẫn như không có chuyện gì, lại còn ân cần với đối phương, quả là khác người!”.

Tăng Quốc Phiên không những xử sự như vậy mà còn dặn kỹ người hầu rằng: “Phàm là ở bất kỳ đâu, nhìn thấy Lục Ni kiệu thì cho dù đối phương là quan nhỏ thì cũng phải lập tức nhường đường!”.

Tăng Quốc Phiên nói: “Kẻ sĩ có ba việc không tranh đấu, đó là: Chớ tranh đấu danh với người quân tử, chớ tranh đấu lợi với tiểu nhân và chớ cùng trời đất so đấu khôn khéo”.

Không so đo sẽ không khiến bản thân rơi vào vòng xoáy tranh đấu, không bị mệt bởi “người lừa ta gạt”, không tạo ra nhiều người thù địch, không sợ lúc nào cũng bị người khác hãm hại. Không so đo còn tiết kiệm được rất nhiều thời gian, có thừa tinh lực để làm việc mà mình mong muốn.

Bởi vì không so đo mọi chuyện, chỉ một lòng một dạ làm việc, làm người nên Tăng Quốc Phiên đã tạo ra một kỳ tích ở chốn quan trường, đó là chỉ trong 9 năm ông đã được tăng 10 cấp bậc, cuối cùng trở thành một danh thần, được người đời mãi mãi ca ngợi.

Thứ Năm, 1 tháng 12, 2016

Người ôm giữ lòng cảm ân, mới biết được thế nào là trân quý

Cô gái có thu nhập trên 70 triệu mỗi tháng, kiên quyết gả cho anh chàng nghèo khó cơ cực, khiến cả gia đình phản đối. Mười năm trôi qua, chàng trai lại đối xử với cô gái như vậy…

Người ôm giữ lòng cảm ân, mới biết được trân quý; người biết trân quý, mới có thể có được niềm vui. (Ảnh: Internet)


Tiểu Mỹ và Tiểu Thiên yêu nhau nhiều năm, Tiểu Mỹ là viên chức của một công ty lớn, thu nhập hàng tháng hàng trăm triệu đồng, còn Tiểu Thiên là nhân viên nghiệp vụ của một công ty nhỏ, thường xuyên phải lo lắng chuyện cơm áo gạo tiền.


Bố mẹ của Tiểu Mỹ tất nhiên rất không hài lòng với chuyện này, nhiều lần nhờ người khác giới thiệu đối tượng có điều kiện tốt hơn cho Tiểu Mỹ, nhưng Tiểu Mỹ kiên quyết không đồng ý.


Cô nói với bố mẹ rằng cô yêu anh ấy, cô bằng lòng gả cho anh ấy, dù cho Tiểu Thiên có cả đời nghèo khổ như vậy đi nữa, cô cũng bằng lòng.


Bố mẹ nói cô như vậy là đem hạnh phúc cả đời của mình ra đánh cược, nhưng Tiểu Mỹ lại nói:“Con đã quyết định rồi, cứ cho là phải dùng cả một đời để đánh cược đi nữa, con cũng đồng ý”.


Rất mau chóng, Tiểu Mỹ đã không màng đến sự phản đối của gia đình mà kết hôn với Tiểu Thiên, không có tổ chức đám cưới, bởi Tiểu Thiên thật sự quá nghèo, không có điều kiện để tố chức một đám cưới cho ra hồn được. Hai người chỉ sống trong một căn nhà nhỏ rộng mười mấy mét vuông.


Người chồng làm việc chăm chỉ không kể ngày đêm, sự nghiệp cuối cùng đã có khởi sắc


Sau đám cưới, Tiểu Thiên không muốn vợ mình sau này phải sống một cuộc sống nghèo khổ như hiện nay, liền đến một công ty lớn phỏng vấn xin việc.


Lúc mới bắt đầu, Tiểu Thiên không hiểu biết chút gì về nghiệp vụ của công ty, nhưng anh trước sau vẫn không bỏ cuộc, không ngừng học hỏi từ những người xung quanh.


Giữa trưa khi những đồng nghiệp khác sợ nóng chạy vào trong phòng máy lạnh, thì anh vẫn bôn ba dưới nắng gắt.


Buổi tối, khi những đồng nghiệp khác đã về nhà từ sớm, anh vẫn ở lại chỉnh lý những văn kiện cần thiết cho ngày hôm sau.


Buổi sáng khi những người đồng nghiệp khác vẫn còn đang ngủ nướng, anh đã đến công ty, đã lên kế hoạch công việc cho cả một ngày.


Một năm rất mau đã trôi qua, công việc của Tiểu Thiên cuối cùng đã có khởi sắc. Thu nhập của anh đã cao hơn so với những đồng nghiệp khác, nhưng anh không có tự mãn, vẫn nỗ lực không ngừng.


Hai năm sau, Tiểu Thiên bởi không ngừng đạt được thành tích xuất sắc, làm việc chăm chỉ nên đã được thăng lên làm giám đốc nghiệp vụ của một bộ phận nhỏ.


Còn lúc này, Tiểu Mỹ lại vì một số nguyên nhân đã không còn công việc nữa. Tiểu Thiên an ủi cô, bảo cô sau này hãy cứ ở nhà là được rồi, bên ngoài có một mình anh là đã đủ.


Vào ngày sinh nhật của vợ, anh đã tạng cho vợ mình một món quà đặc biệt. (Ảnh: Internet)


Người chồng có tích cóp đã dành được một khoản tiền nhất định, vào ngày sinh nhật của vợ, anh đã tạng cho vợ mình một món quà đặc biệt


Năm năm sau, Tiểu Thiên đã dành dụm được một khoản tiền nhất định, anh đã mua một căn hộ kha khá cùng với Tiểu Mỹ sống ở đó. Trong ngày sinh nhật của Tiểu Mỹ, anh đã tặng một món quà đặc biệt cho vợ – một tờ giấy. Trên tờ giấy viết rằng: “Bà xã này, hai năm sau anh sẽ tặng cho em một chiếc xe hơi”.


Năm thứ bảy, Tiểu Thiên đã thực hiện lời hứa của mình. Cũng chính trong năm này, Tiểu Mỹ đã sinh hạ cho anh một đứa con.


Mười năm sau, Tiểu Thiên được thăng chức lần nữa, trở thành giám đốc của công ty. Lúc này, Tiểu Mỹ vì sau khi sinh con, thân hình đã trở nên béo mập, cũng không còn xinh đẹp như trước nữa. Bố mẹ của Tiểu Mỹ bắt đầu lo lắng, liệu Tiểu Thiên có bỏ rơi con gái để tìm một cô gái xinh đẹp khác hay không? Nhưng Tiểu Thiên càng quan tâm, yêu thương cô hơn.


Có mấy lần, bạn bè nói đùa trước mặt Tiểu Thiên rằng: “Bây giờ cậu đã có tiền rồi, cái gì cũng đều đã đổi mới, có phải cũng đã đến lúc phải đổi vợ rồi?”.


Nhưng Tiểu Thiên lại nói một cách nghiêm túc rằng: “Không, cả đời này tôi chỉ yêu mỗi cô ấy, không kể cô ấy biến thành thế nào tôi vẫn sẽ yêu cô ấy”.


Tiểu Mỹ hỏi Tiểu Thiên: “Bây giờ em đã không còn trẻ đẹp như trước nữa, không còn xinh đẹp nữa, tại sao anh vẫn còn đối xử tốt với em như vậy?”.


Tiểu Thiên nhìn cô một cách thâm tình: “Mười năm trước, em đã không vì anh nghèo khó mà bằng lòng dùng cả hạnh phúc một đời của mình ra đánh cược, làm sao anh có thể bỏ em mà đi đây? Nửa đời này về sau, anh sẽ luôn đối xử tốt với em, dù cho em xinh đẹp hay không, ốm đau hay bệnh tật, anh cũng chỉ yêu một mình em thôi. Hơn nữa năm đó anh không cho em một cái đám cưới ra hồn, anh cũng muốn được bù đắp lại cho em”.


Có người từng nói rằng:


Người ôm giữ lòng cảm ân, mới biết được trân quý;


Người biết trân quý, mới có thể có được niềm vui…


Trên đường đời của mỗi người, chúng ta ngoài cảm ân và trân quý ra, mãi mãi không nên quên những người đã từng giúp đỡ chúng ta.