Trang chu

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013

Chuyện tu thân của thánh hiền xưa

1. Tư Mã Quang khiến phong tục Lạc Dương trở nên tốt đẹp

Tư Mã Quang thời nhà Tống là người trung hậu chính trực nổi tiếng thiên hạ. Uy đức ông rất lớn cho nên khi ông ở tại Lạc Dương, phong tục địa phương nhờ đó mà được ảnh hưởng cảm hóa, cải biến tốt đẹp.

Từ đó tới nay, người Lạc Dương phần nhiều đều tôn sùng danh dự và tiết tháo, không dám làm điều xằng bậy.

Con cháu hậu sinh muốn làm việc gì cũng nhắc nhở lẫn nhau: “Tuyệt đối không được làm việc xấu! Nếu làm việc xấu, Tư Mã Quang mà biết thì sẽ vô cùng xấu hổ!”

2. Trần Thực khuyên nhủ kẻ trộm

Thời Hậu Hán có một người tên là Trần Thực, là một người chính nhân quân tử, khoan dung nhân hậu. Những khi láng giềng có tranh chấp gì, đều mời Trần Thực ra mặt để dàn xếp. Trần Thực luôn luôn làm một người trọng tài công bình, xử lý hợp tình hợp lý, khiến 2 bên tranh chấp đều tâm phục khẩu phục.

Dần dà, xung quanh người ta lưu truyền một câu ngạn ngữ rằng: “Thà bị quan phủ trách phạt, đánh roi, còn đỡ hơn bị Trần Thực phán ra là người không đúng”.

Một đêm nọ, một tên trộm lẻn vào nhà Trần Thực, trốn trên xà nhà, bị Trần Thực phát hiện ra. Trần Thực thức dậy, cầm cây nến, gọi con cháu trong nhà tập trung lại rồi bảo: “Người ta ai cũng phải tự mình cố gắng! Người bất thiện vốn chưa chắc là kẻ ác, chỉ là vì người ấy thường xuyên làm việc ác, sau đó thành quen, rồi ra như thế. Cũng giống như vị quân tử trên xà nhà chúng ta kia tâm địa vốn không xấu, cũng là vì nghèo khổ bức bách mà ra…”

Tên trộm ấy nghe Trần Thực nói, rất hoảng sợ, nhảy từ trên xà nhà xuống, khấu đầu tạ tội trước Trần Thực. Trần Thực vui vẻ khuyên nhủ anh ta hãy quyết chí sửa đổi hướng thiện, không làm những việc trái với lương tâm không xứng làm người. Đồng thời còn tặng cho anh ta ít lụa và vải, động viên anh ta phải nhất định quyết tâm sửa đổi.

Tác phong và uy đức của Trần Thực tự nhiên cảm hóa được nguyên cả một huyện. Từ đó về sau, trong huyện không còn phát sinh chuyện trộm cắp nữa.

3. Thái thú Phòng Cảnh Bá gương mẫu


Thời Ngũ Đại, Phong Cảnh Bá làm Thái thú Thanh Hòa. Ông liêm khiết làm việc công, nhưng cũng là người con chí hiếu. Mẹ ông chẳng những có học vấn cao mà còn hết sức thông tình đạt lý.

Ở Bối Khâu, một người phụ nữ có đứa con trai bất hiếu, thế là đưa con tới tố cáo ở phủ Thái thú.

Mẹ của Phòng Cảnh Bá bèn nói với ông rằng: “Dân chúng ở đây chưa biết đạo lý, không thông hiểu lễ nghĩa, đây là do con làm thái thú mà bất lực trong việc giáo dục nhân dân. Con chớ có quá quở trách họ đấy!”.
Mẹ Phòng Cảnh Bá bèn triệu 2 mẹ con người phụ nữ ấy vào trong phủ Thái thú. Bà mời người phụ nữ cùng ăn cơm với mình, đồng thời bảo cậu con trai của người này đứng bên ngoài mà nhìn xem thái thú Phòng Cảnh Bá hầu hạ mẹ dùng cơm như thế nào. Sau đó mới bảo nó ăn cơm.

10 ngày như thế, người con trai bất hiếu ấy hàng ngày đều tận mắt chứng kiến Phòng Thái thú kính cẩn hiếu thuận với mẹ ông như thế nào, vô cùng chấn động, và nói với mẹ: “Mẹ! Con sai rồi, nhất định sẽ sửa đổi, từ nay về sau nhất định sẽ hiếu thuận. Chúng ta về nhà!”

Mẹ Phòng Cảnh Bá nói với Thái thú và người phụ nữ kia: “Đứa nhỏ này bề ngoài dù đã tỏ ra xấu hổ, nhưng nội tâm lại chưa thực sự cảm thấy xấu hổ”. Bởi vậy bèn tiếp tục để 2 mẹ con nhà ấy ở lại trong phủ Thái thú đến 20 ngày.

20 ngày sau, đứa con trai người phụ nữ kia đột nhiên quỳ xuống dưới chân mẹ mình, khấu đầu sám hối, liên tục dập đầu đến chảy cả máu. Người phụ nữ cảm động khóc ròng, xin Thái thú cho phép 2 mẹ con trở về nhà.

Sau này cậu con trai kia trở thành một người con có hiếu nổi tiếng khắp vùng.

(Các chuyện đều trong cuốn sách “Tập phúc tiêu tai chi đạo”)

LỜI KHUYÊN CON

Về tác giả và tác phẩm

Tăng Quốc Phiên (1811-1872) tự Bá Hàm, hiệu Điều Sinh, người Tương Hương, tỉnh Hồ Nam, đỗ tiến sĩ triều Đạo Quang, bổ Nội các Học sĩ. Tướng lĩnh chỉ huy Tương quân (đoàn quân khởi phát ở Tương Hương), cánh quân chủ lực trong cuộc chiến chống quân Thái Bình Thiên quốc. Sau khi bình định Thiên quân, Tăng Quốc Phiên được Thanh triều bổ nhậm Tổng đốc Lưỡng Giang, phong Nhất đẳng Dũng Nghị hầu, trở thành văn nhân có tước vị cao nhất trong lịch sử triều Thanh, là một nhân vật có công nghiệp hiển hách trong thời cận đại và cũng gây nhiều tranh nghị trong lịch sử.

"Tăng Quốc Phiên gia thư" hay còn gọi "Tăng Quốc Phiên gia huấn", "Tăng Văn Chính công gia huấn" là ấn bản tập hợp những bức thư của Tăng Quốc Phiên gởi cho gia đình, cho các em, các con trong thời gian ông bận việc quân, tập gia thư này (bản do Lý Hãn Chương sưu tập) xuất bản lần đầu vào năm Dân Quốc thứ 12 (1923) với hình thức thạch ấn bản do Thượng Hải Tảo Diệp Sơn phòng. "Tăng Văn Chính công gia huấn" chiếm một vị trí đặc biệt trong thể loại sách Gia huấn ở Trung Quốc, ảnh hưởng rất lớn, ngang hàng với các sách đã xuất hiện trước như "Nhan Thị gia huấn" của Nhan Chi Thôi đời Nam Bắc triều, "Minh Đạo gia huấn" của Trình Hạo-Trình Di (Tống), "Trị gia cách ngôn" của Châu Bá Lư (Thanh) (hai sách này đã được dịch Quốc ngữ do Đoàn Trung Còn - 1971), "Chu Tử gia chính" của Chu Hi (Tống), "Truyền gia chí bảo" của Thạch Thiên Cơ (Thanh)…


LỜI KHUYÊN CON
Mấy bức thư của Tăng Văn Chính (tức Tăng Quốc Phiên) viết cho các con

Tựa của dịch giả:

Cổ nhân có câu rằng: Hoàng kim vạn lạng phi vi quý, nhất gia hoan lạc trị tiền đa. Nghĩa là: Vàng kia muôn lạng coi thường vậy, nhà cửa vui vầy giá mới cao. Lại có câu rằng: Gia hòa tắc phúc tự sinh, bất hòa tắc tai họa lập chí. Nghĩa là: Trong nhà mà hòa hợp tự khắc phúc đến, trong nhà mà bất hòa, thì tai vạ đến ngay. Xem hai câu này thì đủ biết người ta ở đời không gì sướng bằng trong gia đình có cảnh vui cha lành con hiếu, vợ thuận chồng hòa, anh yêu em kính, mà không gì khổ bằng trong gia đình cùng ngang trái nhau.

Vả lại, trong gia đình cùng dạy dỗ khuyến miễn nhau, cùng biết hòa hợp với nhau, không những cầu được hạnh phúc mà lại có ảnh hưởng đến tinh thần, đến chính trị trong xã hội nữa. Nên những các bậc hiền triết xưa nay, ai cũng chăm chỉ về việc trị nhà. Trị nhà tuy rằng có nhiều cách, nhưng cốt nhất là phải sửa mình cho chính đính, ăn ở cho hợp lễ, cho phải đạo làm người. Sách Đại học có câu rằng: Muốn trị nhà phải sửa mình trước. Kinh Thư có câu rằng: Những nhà đời đời hưng vượng đều vì có lễ cả. Ấy là cái chứng rõ cho người ta biết rằng trị nhà không sao bỏ đạo sửa mình và lễ được.

Tự khi có cái sóng tự do tràn sang, những bọn thiếu niên ta hiểu lầm nghĩa hai chữ tự do, cho rằng phá đổ trật tự, bỏ hết lễ pháp để cầu sướng riêng một mình là tự do, không biết rằng cái hồn tự do chính ở trong trật tự lễ pháp mà ra, nên lại bị con ma tự do láo nó làm tan nát mấy cái dây thân ái, gây nên thảm họa trong gia đình, mà bấy nay ta thường mắt trông thấy, tai nghe thấy những nông nỗi cha từ con, vợ lìa chồng, anh hại em, đăng ở trên báo chướng đấy, truyền ở ngoài cửa miệng đấy, có đáng ghê không! Ôi tự do! Tự do! Dịu dàng như mùa Xuân, ngào ngạt như hoa thơm, bỏ tự do còn cái gì là sướng. Người Tây đã có câu rằng: Không được tự do, thà chết còn hơn. Mong rằng đồng bào ta nên hương hoa mà sùng bái cái tinh thần tự do, đừng có hâm mộ cái bề ngoài tự do.

Nói tóm lại, công phu tu tề của đạo Nho ta cũng như người xuống nước rửa ghét, các cụ ta tuy chưa tìm được cái suối vô để, cái đầm thiên nhiên, nhưng cũng đã phí bao nhiêu tinh sức, trải bao nhiêu cuộc bể dâu mới tu tạo được một cái ao trong trẻo sạch sẽ, dấn mình xuống đấy, cũng đủ rửa sạch được những điều không phải mà trở nên một người hoàn toàn nhân cách rồi. Nay ta chê ao nhà là đục, ta bỏ ta tìm cái ao khác, để mong hơn các cụ xưa kia, thế mà sao bấy nay vẫn thấy loanh quanh chả được cái nào mà lại chỉ thấy đem mình lăn lộn vào trong vũng bùn trong lạch bẩn, thì chi bằng ta trở về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà đã quen!

Chúng tôi nghĩ thế, nên gia công khảo cứu về đạo trị nhà, nay được một bộ Tăng Văn Chính công gia huấn đốt hương đọc hết trước sau, trong những phép sửa mình phép trị nhà, xem người ở đời, dùng người, tiếp người, điều nào cũng là điều thâm trầm thân thiết, lẽ nào cũng là lẽ đã duyệt lịch, đã kinh nghiệm cả rồi; giá đem ra mà trị cái phong hóa của xã hội ta bây giờ thật là một phương thuốc đối bệnh, nên chúng tôi một lòng sốt sắng, chọn ngắt từng thiên, sau chia từng đoạn, dịch ra quốc âm, để công đồng lãm, mong rằng các bạn độc giả chịu khó gia công nghiền ngẫm, hết sức bắt chước mà làm, thì chắc cũng có thể trở nên một người đứng đắn, gây được hạnh phúc cho gia đình và có ảnh hưởng đến xã hội nữa.

Thư cho con là Kỷ Hồng
(Thư viết tại Giang Tây, năm Hàm Phong thứ 6, ngày 29 tháng 9 năm Bính Thìn [1856])

Thầy thấy người nhà lại dinh khen rằng con cử chỉ đứng đắn, thầy bằng lòng. Người ta ai cũng mong con cháu làm quan to, thầy không thích thế, thầy chỉ mong mỏi con cháu làm nên được người quân tử, biết đọc sách, biết rõ nghĩa đạo làm người.

Tự giữ mực siêng năng tằn tiện, tập quen khó nhọc, ở lúc vui cũng thế, ở lúc túng bấn, eo hẹp cũng thế, thế là người quân tử.

Thầy làm quan hơn hai mươi năm nay, không dám nhiễm một tí mùi quan nào, ăn mặc cư xử, vẫn giữ thói thanh bạch, kiệm lắm cũng được, hơi phong cũng được, chứ phong lắm thì thầy không dám.

Phàm những nhà làm quan, bởi tằn tiện biến ra xa xỉ thì rất dễ, bởi xa xỉ mà giữ lại thói tằn tiện thì rất khó. Con tuổi còn nhỏ đừng có ham mộ xa hoa, đừng có tập quen lười lĩnh, không cứ nhà hơn nhà kém, kẻ học trò, kẻ làm ruộng, người đi buôn, người làm thợ, biết giữ mực siêng năng, tằn tiện, khó nhọc, thì thấy khá ngay, láo lếu xa xỉ, lười lĩnh thì thấy hỏng ngay.

Con viết chữ đọc sách, chớ có xao nhãng, sáng phải dậy sớm, chớ có làm sai cái phép nhà từ tổ tiên ông cha để lại cho. Con chả từng được mắt trông thấy ông con và chú thầy cứ sáng sớm là dậy đấy ư?

Phàm giàu sang công danh, đều có số cả, một nửa cậy sức người, một nửa nhờ trời, duy học làm nên bậc thánh hiền, đều do tự mình làm chủ, không có can thiệp gì đến trời đến mệnh. Thầy vẫn có chí học đạo thánh hiền, chỉ vì lúc bé thiếu một cái công phu cư kính mà đến bây giờ cũng còn có lúc nói đùa làm bỡn. Con cử chỉ đứng đắn, không hay nói càn, thế là có cơ tiến đức đấy, con nên cố đi…

Thư cho con là Kỷ Trạch
(Thư viết tại Giang Tây, năm Hàm Phong thứ 8, ngày 3-8-1858)

Hôm mùng một tháng tám thầy tiếp được cái thư của con, biết rằng ở nhà mẹ con và các con đều được bình yên, thầy mừng lắm. Con học bộ Tứ thư không tâm hiểu được mấy, là vì con không biết: hư tâm hàm vịnh, thiết kỷ thể sát. Nghĩa là: “ngẫm nghĩ ngắm nghía, xét nét kỹ càng như đặt mình vào địa vị ấy”. Phép ông Chu Tử dạy người ta đọc sách, lấy hai câu ấy làm tinh thần nhất.

Như bây giờ con đang học thiên Ly lâu, chương đầu thiên Ly lâu có câu rằng: “Kẻ trên không có đạo để đo đắn, kẻ dưới không có phép mà giữ gìn, thế nước tất nguy”. Năm xưa thầy học đến đấy cũng coi là thường, gần nay ra làm quan mới hiểu rằng làm người trên phải noi đạo mà đo đắn, kẻ dưới phải cứ phép mà giữ gìn, nếu người nào cũng không theo đạo đo đắn, tự cho mình là phải, tự theo lòng mình mà không theo phép, thì tất thành ra kẻ dưới xâm phạm cả người trên. Năm xưa thầy học đến chương “mình yêu người mà người ta không thân với mình, thì phải nghĩ lại xem mình có thật là yêu người không” cũng coi là thường. Bây giờ duyệt lịch nhiều mới hiểu rằng mình trị người ta, mà người ta không phục là bởi trí khôn mình kém. Đấy là một cái chứng xem biết công hiệu câu: “xét nét kỹ càng như đặt mình vào địa vị ấy”.

Còn như hai chữ hàm vịnh rất là khó hiểu. Thầy thường lấy ý hiểu ra rằng: hàm như là mưa xuân nhuận hoa, như suối trong tưới lúa, mưa xuân nhuận hoa ít quá thì không mớn mở, nhiều quá thì tan tác, vừa vừa thì tư nhuận mà tươi tốt, suối trong tưới lúa, ít quá thì vẫn khô, nhiều quá thì ngập nát, vừa vừa thì xanh tốt mà bốc lên. Vịnh là như con cá lượn dưới nước, như người rửa chân. Ông Trình Tử nói rằng: “Con cá nhảy ở vực coi vẻ nhanh nhảu lắm”. Ông Trang Tử bảo rằng: “Xem cá ở bờ hào, lắm vẻ thú lạ, đấy là cái thú cá nước”. Ông Tả Thái Sung nói rằng: “Rửa chân thích rửa ở cái dòng nước chảy xa muôn dặm”. Ông Tô Tử Chiếm có bài thơ tả cái thú đêm nằm khỏa chân dưới nước, có bài thơ tả lúc mới tắm xong, cũng là cái thú thích nước cả. Người biết học sách phải nên coi quyển sách như nước, mà coi cái lòng mình như hoa như lúa, như cá, như rửa chân, thì mới hiểu được ý ngoài hai chữ hàm vịnh. Con học sách chóng biết, nhưng không thâm hiểu nghĩa văn, nên dốc lòng suy cầu bốn chữ thể sát hàm vịnh của ông Chu Tử mới được.

Thư cho Kỷ Trạch
(Thư viết tại doanh trại Dặc Dương ngày 20 tháng 8 năm Hàm Phong thứ 8 [1858])

Hôm mười chín thầy tiếp được một cái thư và một bài thơ của con gởi đến, thầy xem bài thơ của con, khí thanh mà lời cũng êm, thầy vui lòng lắm.

Phàm làm thơ phải so sắn thanh và điệu cho kỹ. Con muốn học thơ, phải nên học mỗi lối độ ba mươi bài cho thật thuộc, thoạt mới đọc thơ phải lên giọng cho dõng dạc khiến cho khí mạnh lên, rồi sẽ ngâm khe khẽ để ngấm nghía cái tứ hay, hai phép cùng tiến, khiến cho thanh điệu của cổ nhân dập dìu cùng ứng, như quen với cổ lưỡi mình, đến lúc hạ bút làm thơ tự nhiên câu điệu tự đến, xuống bút thành thơ, tự đọc lên đã thấy kêu vang, thì tự nhiên có cái thú hứng hay bật ra.
Cổ nhân đã có câu rằng: “Thơ vừa chữa xong tự ngâm mãi”; lại có câu rằng: “Nghiền thơ chữa được cứ ngâm dài”; xem thế thì biết lúc cổ nhân nghiền ngấu khó nhọc, cũng chỉ chuyên trị hai cách thanh và điệu. Tại sao? Bởi vì những bài thơ có chữ có câu là nhân lại, nghĩa là thơ của người làm ra; thơ không có câu có chữ là thiên lại, nghĩa là thơ tự nhiên của trời. Nếu hiểu được lẽ ấy, đem thiên lại và nhân lại hòa lẫn nhau mà làm, thì cái phương pháp làm thơ đã hiểu được quá nửa rồi đấy.

Thầy bình sinh có ba điều xấu hổ: các môn học, môn nào cũng thiệp liệp, duy có khoa học thiên văn và khoa học tính không biết, dẫu những ngôi sao thường nói đến cũng không biết; thế là một điều xấu hổ.

Hễ cứ làm một việc gì, tập một nghề gì cũng chỉ có trước không sau, thế là hai điều xấu hổ.
Lúc bé tập chữ, không hệt được lối nào, đến nỗi thay đổi luôn mà không thành, vừa chậm chạp, vừa không ưa nhìn, bây giờ ra coi việc quân, viết rất nhiều mà mất mát lắm, thế là ba điều xấu hổ.

Con muốn làm nên một người con làm nổi cơ đồ nhà, nên dụng công rửa ba điều xấu hổ ấy cho thầy.

Phàm làm một việc gì, không cứ việc to hay việc nhỏ, khó hay dễ, đều nên có trước có sau; tập chữ trước phải tập cho tròn trặn, sau cho nhanh nhẹn, nếu mỗi ngày viết được độ một vạn chữ chân thật, ít cũng viết được bảy tám nghìn chữ, càng nhiều càng quen, không mỏi tay nữa, sau này đem cái tài ấy dùng vào sự học, thì sao chép được cả mọi sách, dùng làm việc quan, thì không sót án nào, bao nhiêu điều tiện lợi đều do ở cái công phu viết được ngay ngắn nhanh nhẹn mà ra cả.

Kỳ đệ nhất khoa thi năm nay, trúng hay không trúng, cũng không quan hệ gì; hễ ra bảng rồi thì chỉ nên xem cho hết các kinh sử. Bóng quang âm rất khó được, một khắc giá nghìn vàng!

Từ sau có viết thư thăm thầy nên đem những điều nào lẽ nào đã hiểu rồi, bàn bạc tung hoành, để thầy xét xem con có tiến bộ không, đừng có viết lèo tèo được mấy lời thế.

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Tên Trộm và Viên Quan




Trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, Tăng Quốc Phiên là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả và nhà văn nổi tiếng.

Tên trộm đợi bên ngoài và mất kiên nhẫn

Tăng Quốc Phiên không có năng khiếu nổi bật trong học tập, nhưng ông rất cố gắng. Một đêm nọ, ông cố học thuộc lòng bài văn bằng cách đọc nhẩm nhiều lần. Một tên trộm đến nhà ông và núp ở ngoài. Tên trộm chờ ở đó vì hắn định ra tay khi chàng thanh niên dừng học và đi ngủ.

Tên trộm đợi rất lâu. Ánh đèn vẫn sáng và tiếng đọc bài vẫn không dứt. Tăng tiếp tục đọc đi đọc lại bài văn, nhưng vẫn không thể học thuộc nó. Một tiếng đồng hồ trôi qua. Tên trộm cứ đợi và đợi. Chân hắn mỏi và hắn trở nên chóng mặt. Sau một thời gian dài chờ đợi, cuối cùng hắn phát cáu và nhảy vào ngôi nhà. Hắn nguyền rủa chàng thanh niên: “Đây là những gì tốt nhất mày có thể làm ư? Mày chẳng thông minh tí nào cả! Tao có thể thuộc lòng bài văn này khi mày đọc lại lần thứ ba. Làm sao mày có thể mất cả tiếng đồng hồ để học thuộc nó chứ?” Sau đó tên trộm đọc thuộc bài văn trôi chảy trước mặt chàng thanh niên rồi bỏ đi.

Sự ảnh hưởng của tên trộm lên chàng trai trẻ

Tăng bị sốc và xấu hổ. Ông ta ngạc nhiên vì trí nhớ tốt của tên trộm. Điều này khiến ông cảm thấy khả năng học tập của mình thật tệ hại, nhưng hành vi của tên trộm đã khích động ông ta. Ông tập trung tất cả năng lượng của mình vào học tập.

Một vài năm sau, Tăng đậu kỳ thi cấp hai dưới chế độ nhà Mãn Thanh và được phong làm quan địa phương. Không lâu sau, một tên trộm bị bắt. Khi nghe về vụ án, Tăng Quốc Phiên nghĩ rằng tên trộm này có vẻ quen thuộc. Đột nhiên, ông nhớ ra: tên trộm này là kẻ từng sỉ nhục mình nhiều năm về trước. Tăng mỉm cười và nói đùa: “Ta từng ganh tị về sự thông minh của ngươi vào lúc đó, nhưng bây giờ ngươi vẫn chỉ là một tên trộm”.

Trong lịch sử hiện đại Trung Quốc, Tăng Quốc Phiên là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả và nhà văn nổi tiếng. Ông cũng là một trong những đại thần cao nhất thời hậu Thanh, nhưng tên trộm vô danh kia vẫn chỉ là một tên trộm.


Tên trộm đợi bên ngoài vì hắn định lấy hết đồ trong nhà khi Tăng Quốc Phiên dừng học và đi ngủ.

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Thế giới rộng mở khi ta buông bỏ tự ngã

Một trí giả từng nói với tôi: “Lòng từ bi là khi một người có thể vứt bỏ tự ngã của mình và suy nghĩ từ quan điểm của những người khác trong bất kể vấn đề gì mà anh ta gặp phải.” Tuy nhiên, do chuẩn mực đạo đức trong xã hội hiện đại càng ngày càng xuống thấp, mọi người chỉ coi trọng bản thân mình và ngày càng hiếm người thật lòng đặt mình vào hoàn cảnh của những người khác và suy nghĩ cho họ. Bản thân tôi đã đã chứng nghiệm được việc vứt bỏ tự ngã của mình chỉ sau khi bắt đầu tu luyện. Khi một người cạnh tranh và đấu đá cho những ham muốn và lợi ích cá nhân, các xung đột sẽ xảy ra không ngừng nghỉ. Cổ nhân dạy “thanh thản mang lại may mắn và hòa bình tạo ra giàu có” là rất đúng đắn. Chúng ta chỉ nhận được một điều gì khi chúng ta cho đi, và chỉ thu hoạch sau khi đã lao động chăm chỉ. Khi một cá nhân bỏ qua cái tôi của mình, anh ta sẽ thật sự cảm nhận được cảnh giới tinh thần của “Liễu ám hoa minh hựu nhất thôn” (sau khi qua rặng liễu tối, sẽ là hoa tươi và một ngôi làng phía trước).

Có một câu chuyện kể rằng thời xưa, một người bị lạc trong một sa mạc. Trên bờ vực của cái chết, ông phải đối mặt với những cơn đói và khát không thể chịu đựng nổi. Tuy nhiên, ông vẫn lê từng bước chân nặng nề tiến về phía trước. Cuối cùng, ông đã tìm thấy một túp lều nhỏ bị bỏ hoang một thời gian dài. Phía trước của túp lều có một máy bơm nước, nhưng nó không chứa một giọt nước nào. Trong cơn tuyệt vọng, ông bất chợt nhận thấy một ấm đun nước để cạnh máy bơm. Miệng của ấm đun nước đã được đóng bằng một mảnh gỗ và một tờ giấy nhỏ đã được đặt trên ấm đun nước cho biết: “Hãy đổ nước trong bình đun nước này vào trong máy bơm trước sau đó mới có thể bơm nước. Nhưng xin hãy nhớ đổ đầy nước vào các bình này trước khi rời khỏi đây“. Sau khi đọc xong, ông cẩn thận mở tấm gỗ ra và nó thật sự có nước.



Vào thời điểm đó, người đàn ông đã phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn: Hoặc là ông sẽ đổ nước vào cái bình và có thể nước sẽ không còn chảy ra từ vòi nước nữa và ông sẽ chết khát ở nơi hoang mạc này, nhưng nếu ông uống chỗ nước đó và cứu mạng sống của chính mình thì những người đến sau đó sẽ không có hy vọng. Sau một lát do dự, ông cảm thấy như có một cảm hứng tuyệt diệu mang đến cho ông sức mạnh và ông quyết định làm theo những chỉ dẫn ghi trên tờ giấy. Nước đã chảy ra và ông uống cho đến khi thỏa mãn cơn khát đã giày vò ông. Sau khi nghỉ ngơi một chút, ông đổ nước vào đầy bình chứa, đậy nắp lại và ghi thêm vào tờ giấy nhỏ là: “Xin hãy tin tôi, những điều ghi trên tờ giấy này là thật và chỉ khi bạn dẹp bỏ được sự lo ngại về sự sống chết, bạn mới có cơ hội để tận hưởng vị ngọt của làn nước suối”.

Buông bỏ cái tôi là đức tính hy sinh cho những người khác và cũng là một cảnh giới tinh thần cao cả. Khi một người thật sự đặt tự ngã của mình xuống, trí tuệ sẽ xuất hiện giúp anh ta phân biệt được đâu là chân đâu là giả, và anh ta sẽ nhận được những phần thưởng bất ngờ. Mặc dù trong thế giới này, không phải lúc nào ta cũng nhận lại được ngay sau khi cho đi nhưng chỉ khi cho đi ta mới có thể nhận lại và có cơ hội để tận hưởng làn nước mát lành. Do vậy, bất cứ khi nào tôi nhìn thấy các học viên Pháp Luân Công trên khắp thế giới hy sinh tiền bạc và thời gian để làm rõ sự thật và cứu độ chúng sinh với gia đình của họ, bất kể thời tiết mùa hè nắng gắt nóng bức hay mùa đông lạnh giá, trái tim của tôi được lấp đầy với hàng ngàn cảm xúc.

Dẹp bỏ cái tôi của mình, gạt bỏ sống chết sang một bên và hy sinh cho người khác mà không ích kỷ chính là cảnh giới tinh thần của một bậc giác ngộ!

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2013

Hai câu chuyện cổ về tôn Sư trọng Đạo

Tôn sư trọng đạo là các giá trị truyền thống trong văn hóa Trung Hoa cổ xưa, các danh ngôn như “Sư đồ như phụ tử”, và “Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ” từ xưa đến nay rất phổ biến.

Người học trò coi ân đức của người thầy tựa như cha của mình, vì vậy mới gọi ông là “ân sư” hay “sư phụ”. Người thầy truyền thụ luân lí đạo đức, tri thức và các giá trị tốt đẹp cho học trò của mình. Dạy người những hành vi quy phạm đối nhân xử thế trong xã hội nói chung. Trong khi theo học người thầy, người học trò không phải chỉ hiểu được các đạo lí cung kính phụng sự người thầy, mà còn phải nghiêm ngặt thực hiện những gì mà người thầy dạy bảo. Dưới đây là vài câu chuyện kể về việc cổ nhân tôn sư trọng đạo như thế nào.


Vua Nghiêu vua Thuấn tôn kính Hứa Do

Hứa Do là một học giả nổi tiếng và có đạo đức cao thượng thời Trung Quốc cổ đại. Ông xem các tiêu chuẩn đạo đức quan trọng hơn lợi ích cá nhân, và theo như cuốn “Trang Tử” thì ông là thầy của vua Nghiêu. Còn theo cuốn “Lã Thị Xuân Thu” thì ông cũng là thầy của vua Thuấn. Cả ba người đều được coi là bậc thánh nhân.

Trong thời trị vì của vua Nghiêu, Trung Quốc là một vùng đất yên bình và trù phú. Mặc dù vua Nghiêu đã bổ nhiệm nhiều người tài trí phò tá trong việc cai trị đất nước, ông vẫn lo lắng còn nhiều người có đức có tài vẫn đang mai danh ẩn tích. Để tìm được những người đó, vua Nghiêu thường tìm kiếm khắp nơi, kể cả những vùng làng quê và miền núi xa xôi hẻo lánh. Khi vua Nghiêu nghe nói về một người tên gọi Hứa Do là người đoan chính và có đạo đức cao thượng, ông đã không quản đường xa để đến gặp Hứa Do. Sau khi trò chuyện xong, Hứa Do nhận thấy vua Nghiêu quả thực là một vị minh chủ. Còn vua Nghiêu ngưỡng mộ học thức uyên thâm về các nguyên lý vũ trụ của ông, và mời ông về làm thầy dạy cho mình.

Sau khi trở về cung, vua Nghiêu nghĩ về việc phong cho Hứa Do chức danh gì. Vì vậy, ông đã tạm thời giao việc triều chính cho quan Đại Tư Nông và đi mời Hứa Do về cung. Khi gặp Hứa Do tại một tệ xá, vua Nghiêu rất mực cung kính và bái ông làm thầy. Vua Nghiêu nói: “Đệ tử tài kém, đức mỏng. Khi mới tiếp quản đất nước có phát nguyện rằng sẽ tạm thời lên ngôi báu, nhất định sẽ ghé thăm tất cả những bậc hiền nhân trong thiên hạ và mời một trong số họ về giao cho họ quyền cai quản đất nước. Hiện nay đệ tử nghĩ rằng tài đức của lão sư tựa như ánh nhật nguyệt, các bậc hiền nhân trong thiên hạ không ai sánh kịp. Đệ tử nguyện mang cả giang sơn nhường lại cho ngài. Xin ngài đừng do dự mà hãy đảm nhận để làm an lòng muôn dân trăm họ.” Hứa Do đáp: “Bệ hạ đã cai quản giang sơn được quốc thái dân an và vạn dân phong nhạc. Đây toàn bộ là công lao của bệ hạ. Nếu giờ đây nhường lại cho thần tiếp nhận, chẳng phải có nghĩa là thần đang vì danh mà làm hay sao?” Vua Nghiêu năm lần bảy lượt cố gắng thuyết phục Hứa Do tiếp nhận, nhưng ông đã kiên quyết khước từ. Khi vua Nghiêu đến thăm Hứa Do vào ngày hôm sau, ông đã rời đi, và không ai biết ông đã đi đâu.

Vua Nghiêu tiếp tục tìm kiếm Hứa Do và một năm sau cuối cùng cũng tìm thấy ông đang cày ruộng dưới chân núi Tung Sơn. Một ngày, trong lúc đang làm việc trên cánh đồng, Hứa Do nghe thấy tiếng ai đó gọi lớn và đang tiến đến: “Thầy ơi.” Hứa Do nhìn quanh và thấy vua Nghiêu. Ông ngạc nhiên hỏi: “Bệ hạ đến đây để làm gì? Thần có thể giúp gì được chăng?” Vua Nghiêu nói: “Lần trước học trò định đem thiên hạ nhường lại cho thầy vì học trò kém tài đức mỏng e rằng sẽ làm hại muôn dân trăm họ. Không ngờ thầy khước từ và bỏ đi. Sau khi suy nghĩ thấu đáo, học trò thấy rằng vẫn không ai có thể hơn thầy. Vì lẽ đó mà học trò lại đến thỉnh cầu thầy đảm trách nhiệm đứng đầu Cửu Châu (chỉ chín khu vực hành chính của Trung Quốc thời xưa, sau dùng để chỉ Trung Quốc). Được vậy thì quả thực là không chỉ may mắn cho học trò mà còn cho cả vạn dân thiên hạ.” Hứa Do nghe tới đó bèn nói: “Bệ hạ nói vậy thần đây chưa hiểu rõ ý. Thần chưa từng nghe nói ai đó làm chủ Cửu Châu, ngoài Thiên tử, và đó chính là bệ hạ.” Vua Nghiêu nói: “Nguyên ban đầu thì không có chức quan đó. Chẳng qua đệ tử thỉnh cầu lão sư phụ tá nên đã đặc biệt lập ra chức quan đó để bày tỏ sự thành khẩn của mình. Xin thầy hãy nhận cho.” Hứa Do một lần nữa từ chối và quy về ở ẩn tại một nơi vắng vẻ không ai tìm thấy được. Người đời biết đến câu chuyện này và khen ngợi sự rộng lượng và khiêm tốn của vua Nghiêu, và cảnh giới của Hứa Do.

Thời còn cày ruộng ở Lịch Sơn, vua Thuấn thường nhường cho người khác những mảnh đất phì nhiêu màu mỡ vì ông coi trọng sự nhún nhường và nhân nghĩa. Trong vòng sáu tháng, những người nông dân ở đó đã nhận những mảnh đất cằn cỗi và cũng nhường cho người khác những mảnh đất màu mỡ. Người dân ở Lịch Sơn đều kính trọng vua Thuấn đến nỗi thay vì lẽ ra phải là quan lệnh xử án thì đôi khi ông lại là người được yêu cầu đứng ra phán xử. Vì ông mà nhiều người đã chuyển tới sống ở Lịch Sơn, khiến cho vùng xa xôi hẻo lánh này dần dần trở thành một nơi phồn thịnh. Người dân nơi đó gọi Vua Thuấn là thánh nhân, ý là: “Những người mà thánh nhân gặp thực sự sẽ được cảm hóa. Thánh nhân dạy chúng ta dùng nghĩa và nhường nhịn, không dạy chúng ta lấy lợi và tranh giành.”

Một lần sau khi cày ruộng xong, vua Thuấn dạo chơi ở Ki Sơn, ông thấy một ông lão đang tiến về phía mình. Sau đó ông lão bỗng dưng bị vấp vào một hòn đá và ngã xuống đường. Vua Thuấn vội vàng nâng ông lão dậy rồi dìu ông lão đến ngồi nghỉ ở một phiến đá. Vua Thuấn hỏi thăm danh tính và chỗ ở của ông lão. Ông lão đáp: “Vì sao ngài lại hỏi? Nhiều năm nay lão đã không nói cho ai biết tên của mình.” Sau đó, ông lão hỏi tên của vua Thuấn. Khi vua Thuấn nói tên của mình, ông lão cười và nói: “Ô! Ngài chính là người đó. Lão đã nghe nói rất nhiều về ngài. Thôi được, lão sẽ nói cho ngài biết tên, nhưng chỉ hai chúng ta biết mà thôi.” Sau khi vua Thuấn liên tục cam đoan, lão nhân mới nói: “Lão tên gọi Hứa Do.” Vua Thuấn lập tức quỳ xuống và vái lạy. Ông nói với Hứa Do: “Chẳng hay tiên sinh sống ở đâu? Học trò xin được đưa ngài về nhà.” Hứa Do cười đáp: “Vậy thì tốt quá. Xin đa tạ. Lão sống ở phía bên kia Ki Sơn.” Vua Thuấn đáp: “Có thể được hầu hạ trưởng bối chính là vinh dự của học trò.” Sau khi nói cho vua Thuấn biết nhà, Hứa Do tiếp nhận vua Thuấn làm đệ tử. Ngày hôm sau, vua Thuấn tặng Hứa Do rất nhiều quà để trả ơn thầy. Hứa Do đã giảng cho vua Thuấn rất nhiều đạo lí giúp ông trở thành một vị thánh quân nhân từ cảm hóa thiên địa.

Tằng Tham cẩn trọng tuân theo lời dạy của thầy
Ở tuổi 16, Tằng Tham trở thành học trò của Khổng Tử. Ông siêng học và cẩn trọng tuân theo những lời chỉ dạy của thầy, và là người chủ yếu truyền bá và kế thừa học thuyết của Khổng Tử, giữ một vị trí tiếp nối trọng yếu giữa các thế hệ trong văn hóa Nho gia. Ông đề xuất: “hàng ngày tự xét bản thân nhiều lần,” có nghĩa là hàng ngày ông liên tục tự xét bản thân minh để xem mình đã làm tận tâm tận lực vì người khác chưa, đối với bạn bè bằng hữu có chân thành không, hay đã nghiêm túc chăm chỉ ôn tập bài vở mà thầy truyền thụ chưa.

Có một điển cố nổi tiếng “Tằng Tham thể hiện sự tôn kính”, kể rằng có lần khi Tằng Tham đang ngồi bên cạnh Khổng Tử, Khổng Tử hỏi ông rằng: “Các vị quân vương xưa kia có đức hạnh tột bậc và lí luận vô cùng thâm sâu mà họ dùng để giáo hóa dân chúng trong thiên hạ. Trò có biết vì sao mọi người có thể chung sống hòa thuận với nhau và không có sự bất mãn giữa quân vương với quần thần?” Tằng Tham nghe xong, biết rằng Khổng Tử sắp chỉ bảo cho mình những đạo lý sâu sắc, ông lập tức đứng dậy và đứng bên mép chiếu. Sau đó ông cung kính trả lời: “Đệ tử chưa đủ thông minh để có khả năng hiểu được nguyên do. Thỉnh sư tôn chỉ bảo.” Đây thực sự là một hành động vô cùng lễ phép. Về sau, rất nhiều người đã học tập theo lễ nghi này của Tằng Tham.

Sau khi cùng Khổng Tử rời nước Sở trở về nước Lỗ, ngày nào cũng vậy, Tằng Tham ban ngày cày ruộng và buổi tối thì học cho tới tận đêm khuya. Do không đảm nhận chức quan nào nên cuộc sống của ông vô cùng khó khăn. Vua nước Lỗ khi đó nghe nói đến phẩm hạnh của Tằng Tham, đã quyết định tặng ông một thực ấp. Tằng Tham kiên quyết từ chối, nói rằng ông không làm thì không hưởng. Sứ giả được phái đến thuyết phục ông: “Không phải do tiên sinh cầu xin thì sao lại không nhận?” Tằng Tham chân thành đáp: “Tôi thường nghe người ta nói rằng kẻ cho thì kiêu ngạo, kẻ nhận thì phải khúm núm. Cho dù người cho đó không hề kiêu ngạo, làm sao tôi có thể không khúm núm?” Khổng Tử biết được sự việc này, ông đã khen ngợi học trò: “Lời nói của Tằng Tham đủ để giữ tròn tiết tháo của trò ấy.”

Sau khi Khổng Tử mất, Tằng Tham và những đệ tử khác như Tử Hạ, Tử Trương, Tử Du và Hữu Nhược thương xót để tang ba năm. Khi hết ba năm, họ cùng nhau hành đại lễ tại mộ của Khổng Tử và sau đó nức nở khóc quay trở về. Tử Hạ, Tử Trương và Tử Du sau đó đề xuất: “Hữu Nhược tướng mạo rất giống thầy, chúng ta có thể coi anh ấy là thầy Khổng Tử và đối với anh ấy thành tâm và lễ tiết như đã làm với thầy Khổng Tử. Làm vậy cũng là thể hiện sự tôn kính với thầy.” Tằng Tham nghe vậy vô cùng tức giận và lập tức phản đối. Ông nghiêm chỉnh nói: “Chúng ta không được làm vậy. Đức hạnh của thầy vô cùng thuần khiết, tựa như được gột sạch bởi nước sông tinh khiết, và sáng chói tựa như được tắm bởi ánh dương mùa thu. Đức của ngài cũng thần thánh thiêng liêng như trời đất rộng lớn vô biên. Làm sao ngài có thể được so sánh với một người có tướng mạo giống ngài?” Mọi người đều kinh ngạc trước những gì Tằng Tham nói, và vô cùng cảm động trước sự đối đãi chân thành đối với thầy cũng như lễ nghi cẩn thận tỉ mỉ của ông.

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Lão Tử, Khổng Tử và Phật Thích Ca Mâu Ni

Sau khi thời Xuân Thu đã đi qua được 2500 năm, ngoại trừ Phật gia không có học phái nào có thể ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa Trung Hoa bằng Nho gia và Đạo gia. Bởi vậy, ông tổ của 3 gia phái này là Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử được người đời sau ngưỡng mộ và sùng bái.

Thật trùng hợp ở chỗ, ngày tháng 3 vị ấy ra đời chênh nhau không quá 20 năm. Theo góc nhìn lịch sử, thì 3 vị ấy là người của cùng một thời đại. Năm 571 Trước công nguyên, ngày 15 tháng 2 Lão Tử giáng sinh tại nước Sở, huyện Khổ (nay là huyện Lộc Ấp, Hà Nam). 5 năm sau, ngày 8 tháng 4 năm 566 Trước công nguyên Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sinh ở Kim Ni Bạc Nhĩ. 15 năm sau, vào ngày 27 tháng 8 năm 551 Trước công nguyên, Khổng Tử ra đời tại Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông.

3 vị Thánh giả giáng sinh vào cùng một thời đại, ấy là sự trùng hợp của lịch sử hay là Ý Trời đã an bài như vậy?

Lão Tử


“Lão Tử” tên thật là Lý Nhĩ, tên tự là Bá Dương. “Lão” là ý gọi người tuổi cao Đức lớn. “Tử” là cách gọi bày tỏ lòng tôn kính đối với người khác. Tương truyền Lão Tử bẩm sinh có khí chất phi phàm, am hiểu chuyện xưa, giỏi việc lễ chế, từng đảm nhiệm chức quan “Thủ tàng thất sử” (tương đương với giám đốc thư viện quốc gia hoặc là giám đốc viện bảo tàng quốc gia) và chức Trụ hạ sử (tương đương với chức quan Ngự sử thời Tần, Hán). Lão Tử ở lại Lạc Dương nước Chu thật lâu, thấy rõ sự suy sụp của nhà Chu. Năm 500 trước công nguyên, trong hoàng tộc nhà Chu phát sinh cuộc nội chiến tranh giành ngôi vị, Lão Tử bị liên lụy và bị bãi quan. Lão Tử cảm thấy nhân thế hiểm ác, bèn rời đi. Ông lưu lạc khắp 4 phương trời nhưng không để ai biết danh tính của mình.

Ngày 1 tháng 9 năm 478 trước công nguyên, Lão Tử 93 tuổi đi về nước Tần. Lúc đi qua cửa Hàm Cốc, quan Lệnh tên là Doãn Hỷ ở đó xem bói đã biết trước là sẽ có một Thần nhân đi qua đây, bèn sai người quét dọn sạch sẽ 40 dặm đường để nghênh đón. Quả nhiên Lão Tử tới. Doãn Hỷ nói: “Tiên sinh Ngài muốn ẩn cư, sau này không còn được nghe Ngài dạy bảo nữa, kính xin tiên sinh viết sách để truyền lại cho hậu thế!”. Lão Tử tại Trung Nguyên chưa từng truyền thụ lại điều gì. Ông biết Doãn Hỷ trong mệnh đã định là sẽ đắc Đạo, bèn tạm dừng lại nơi này một thời gian ngắn, viết lại cuốn sách nổi tiếng ngàn đời: “Đạo Đức kinh”. Sau đó, Lão Tử ra khỏi cửa Hàm Cốc đi về phía Tây, vượt qua vùng Lưu Sa… Lưu Sa là chỉ vùng sa mạc lớn ở Tân Cương. Không ai biết cuối cùng ông đã đi về nơi đâu.

Khổng Tử từng đến kinh đô nước Chu, thỉnh giáo Lão Tử về Lễ chế. Một ngày, Khổng Tử cưỡi một chiếc xe cũ do trâu kéo, lắc la lắc lư tiến vào thành Lạc Dương – kinh đô của nước Chu. Ông đi lần này mục đích là để tham quan “Các nguyên tắc trị nước mà các vị Tiên vương đã dùng”, khảo sát “Nguồn gốc của Lễ Nhạc”, học tập “Các quy phạm đạo đức”, bởi vậy việc ông tới viếng thăm Lão Tử, vị quan tinh thông chế độ Lễ nghi và quản lý thư viện hoàng gia, ấy là an bài tối quan trọng [của Thiên thượng]. Khổng Tử sau khi hoàn thành việc khảo sát lần đó, đã nói một câu lưu truyền đời sau rằng: “Trong số rất nhiều học thuyết trên đời, ta chọn theo [học thuyết của] nhà Chu”. Chế độ Lễ nghi thời đại nhà Chu là phỏng theo Lễ chế thời đại nhà Hạ và nhà Thương làm cơ sở mà đặt định ra, và Khổng Tử chủ trương sử dụng Lễ chế của thời đại nhà Chu. Có thể thấy chuyến đi lần ấy của ông thu được ích lợi không hề nhỏ.

Khổng Tử bái kiến Lão Tử. Lão Tử hỏi Khổng Tử đọc sách gì, ông trả lời là đọc “Chu Dịch”, và Thánh nhân đều đọc sách này. Lão tử nói: “Thánh nhân đọc sách này thì được, còn ông vì sao cần phải đọc nó? Tinh hoa của quyển sách này là gì?”.

Khổng Tử trả lời: “Tinh hoa của nó là tuyên dương Nhân Nghĩa“.

Lão Tử nói: “Cái gọi là nhân nghĩa, đó là một thứ mê hoặc lòng người, giống như như muỗi rận ban đêm cắn người, chỉ có thể làm người ta thêm hỗn loạn và phiền não mà thôi. Ông xem, con chim Thiên nga kia không cần tắm rửa mà lông vũ tự nhiên vẫn trắng như tuyết, Quạ đen hàng ngày không nhuộm lông mà tự nhiên vẫn đen. Trời vốn là cao, đất vốn là dày, mặt trời mặt trăng từ trước tới nay đã phát ra ánh sáng rực rỡ, tinh thần từ trước tới nay chính là đã được an bài có trật tự, cây cỏ từ lúc sinh ra thì đã khác nhau. Nếu như ông tu Đạo, vậy cũng thuận theo quy luật tồn tại của tự nhiên, tự nhiên là có thể đắc Đạo. Tuyên dương những thứ nhân nghĩa để làm gì đây? Chẳng phải điều đó cũng đáng tức cười như việc vừa đánh trống vừa đi tìm một con dê thất lạc hay sao?”

Lão Tử lại hỏi Khổng Tử: “Ông cho rằng tự mình đắc Đạo rồi chưa?”.

Khổng Tử nói: “Tôi đã tìm cầu 27 năm rồi, vẫn chưa đắc được”.

Lão Tử nói: “Nếu như Đạo là một thứ hữu hình có thể tìm kiếm và dâng hiến cho con người, thì người ta sẽ tranh giành nó đem dâng tặng cho quân vương. Nếu như Đạo có thể đem tặng cho người khác, thì người ta sẽ đem tặng nó cho người thân. Nếu như Đạo có thể giảng rõ ra được, người ta sẽ đem nó giảng giải cho anh em của mình. Nếu như Đạo có thể truyền thụ cho người khác, thì người ta đều sẽ tranh nhau truyền nó cho con cái mình. Song những chuyện như thế là không thể được. Nguyên nhất rất đơn giản, Đạo ấy chính là thứ mà một người bình thường không thể nhận thức một cách chính xác được, Đạo tuyệt đối sẽ không thể nhập vào tâm của người thường được”.

Khổng Tử nói: “Tôi nghiên cứu ‘Thi Kinh’, ‘Thượng Thư’, ‘Lễ’, ‘Nhạc’, ‘Dịch’, ‘Xuân Thu’, giảng nói đạo lý trị quốc của các vị tiên vương, hiểu rõ con đường thành công của Chu Công, Triệu Công. Tôi đã lấy đó để bái kiến 70 quân vương, nhưng họ đều không chọn dùng chủ trương của tôi. Xem ra người ta thật là khó thuyết phục được!”.

Lão Tử nói: “Ông nói ‘Lục Nghệ’ ấy tất cả đều là những thứ xưa cũ của thời đại các tiên vương, ông nói những thứ đó để làm gì đây? Thành tựu tu học mà ông đạt được hôm nay cũng đều là những thứ xưa cũ rồi”.

Khổng Tử thỉnh giáo xong Lễ chế nhà Chu, liền quyết tâm trở về nước Lỗ khôi phục lại nguyên xi Lễ nghi của nhà Chu. Lão Tử đối với việc này vẫn bảo lưu ý kiến. Bởi vì Lễ tuy là cần phải có, nhưng muốn khôi phục toàn diện Lễ nghi nhà Chu, e rằng không thể làm được. Thời thế thay đổi, chút Lễ nghi nhà Chu ấy cũng không thích hợp với tình huống đương thời nữa. Vì vậy Lão Tử nói với Khổng Tử: “Ông theo lời những người đó, xương cốt của họ đều đã mục nát cả rồi, chỉ là những lời bàn luận của họ là còn tồn tại mà thôi. Hơn nữa quân tử gặp được thời cơ chính trị 1 thì liền theo chính, thời cơ không thích hợp thì cũng như cây cỏ bồng kia gặp sao yên vậy. Tôi nghe nói: Người giỏi kinh doanh đem cất giấu của cải hàng hóa, không cho người thác trông thấy, mặc dù giàu có nhưng dường như cái gì cũng không có. Người quân tử Đức cao thường bề ngoài cũng giống như người ngu độn, không để lộ chân tướng ra ngoài. Ông cần phải vứt bỏ tâm kiêu ngạo và dục vọng, vứt bỏ tâm thái và thần sắc mà ông đang có kia đi, vứt bỏ chí hướng quá truy cầu kia đi, bởi vì những thứ này đối với ông chẳng có chỗ nào tốt cả. Đó chính là những gì mà tôi muốn cho ông biết”.

Khổng Tử không biết nên trả lời ra sao, nhưng vẫn không buông bỏ chí hướng của mình: Đại trượng phu “biết rõ những việc không thể làm mà vẫn làm”. Tham quan xong các địa phương khác, Khổng Tử cáo từ Lão Tử, mang theo trong lòng những nỗi niềm phấn khởi xen lẫn với thất vọng mà rời kinh đô Lạc Dương của nhà Chu. Phấn khởi là vì học hỏi lễ giáo đã thành công, thất vọng là vì những lời khuyến cáo của Lão Tử. Phía sau lưng ông, một bia đá được dựng lên ghi lại mấy chữ: “Khổng Tử đến đất Chu học hỏi lễ nghi”.


Bức tranh ‘Khổng Tử hỏi lễ nghi’ của Chương Thúy Anh.

Khổng Tử trở về, 3 ngày không nói chuyện. Tử Cống thấy kỳ lạ, bèn hỏi thầy chuyện là thế nào. Khổng Tử nói: “Chim, ta biết nó có thể bay; cá, ta biết nó có thể bơi; thú, ta biết nó có thể chạy. Có thể chạy thì ta có thể dùng lưới giăng bắt nó, có thể bơi thì ta có thể dùng dây tơ mà câu, có thể bay thì ta có thể dùng cung tên bắn được nó. Còn như con rồng, ta không biết nó làm sao có thể lợi dụng sức gió mà bay tới tận trời cao. Ta hôm nay gặp mặt Lão Tử, ông ấy cũng như con rồng kia thâm sâu không thể đo lường nổi!”.

Đó chính là sự khác nhau cơ bản giữa một Giác Giả độ nhân và một nhà tư tưởng của nhân gian. Cái gọi là “Đạo bất đồng bất tương vi mưu” (Tạm dịch: không cùng một trình độ tu Đạo thì tâm cảnh cũng khác nhau xa), chính là tình huống như thế này. Đạo lý của Lão Tử vi diệu khó có thể hiểu nổi, bởi vì ấy là lời giáo huấn của Thần. Lời của Khổng Tử chẳng qua chỉ là học vấn của con người, là quy phạm đạo đức và hành vi của loài người mà thôi.

Khổng Tử

Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, tên tự là Trọng Ni, sinh vào nước Lỗ năm 551 trước công nguyên.

Khi lớn lên, Khổng Tử từng làm một chức quan nhỏ chuyên quản lý kho tàng, xuất nạp tiền lương công bằng chuẩn xác. Ông cũng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên quản lý nông trường chăn nuôi, súc vật sinh trưởng rất tốt. Nhờ vậy ông được thăng chức lên làm quan Tư không, chuyên quản lý việc xây dựng công trình. Khổng Tử thân cao 9 xích 6 tấc (xích là đơn vị đo lường cổ Trung Hoa = 1/3 mét), mọi người đều gọi ông là “Người cao lớn”, cho rằng ông là người phi thường.

Sau khi Khổng Tử tới đất Chu học hỏi Lễ nghi trở về lại nước Lỗ, các học trò theo ông học tập dần dần đông lên. Có thể nói Khổng Tử là người thầy tư nhân chuyên thu nhận học trò đầu tiên trong lịch sử giáo dục Trung Quốc. Trước thời ông, trường học hoàn toàn là của nhà nước. Khổng Tử sáng lập ra trường học tư, thu nhận nhiều đồ đệ, đưa giáo dục mở rộng cho bình dân, đem tri thức văn hóa truyền bá cho dân gian, có cống hiến thật to lớn đối với giáo dục thời cổ đại.

Lúc Khổng Tử 35 tuổi tới nước Tề. Tề Cảnh Công thỉnh giáo Khổng Tử về đạo trị nước. Khổng Tử nói: “Quân vương cần phải có phong thái của quân vương, bề tôi cần phải có phong thái của bề tôi, cha cần có phong thái của người cha, con cần có phong thái của con”. Cảnh Công nghe xong nói: “Cực kỳ đúng! Nếu quân vương không ra quân vương, bề tôi không ra bề tôi, cha không ra cha, con không ra con, thì cho dù có rất nhiều lương thực, ta làm sao có thể ăn được đây!”. Ngày khác Cảnh Công lại thỉnh giáo Khổng Tử về Đạo lý trị quốc, Khổng Tử nói: “Quản lý quốc gia cần nhất là tiết kiệm chi tiêu, ngăn chặn lãng phí từ gốc rễ”. Cảnh Công nghe xong rất phấn khởi, định đem đất Ni Khê phong thưởng cho Khổng Tử.

Yến Anh khuyên can nói: “Loại nhà Nho này, có thể nói đạo lý, không thể dùng pháp luật mà ràng buộc được họ. Họ cao ngạo tùy hứng, tự cho mình là đúng. Họ coi trọng tang lễ, dốc hết tình cảm bi thương, an táng trọng thể mà không ngại bị khuynh gia bại sản. Họ đi khắp nơi du thuyết, cầu xin quan lộc. Bởi vậy không thể dùng họ để quản lý quốc gia được. Hiện nay Khổng Tử nói về dung mạo phục sức, đặt định lễ tiết thượng triều hạ triều rườm rà, chính là mấy đời người cũng học tập không xong được, cả đời cũng làm không được thông. Nếu Ngài muốn đem bộ những thứ này để thay đổi phong tục của nước Tề, e rằng không phải là biện pháp tốt để dẫn dắt trăm họ”.

Yến Anh khuyên can có hiệu quả. Sau đó Tề Cảnh Công tiếp đãi Khổng Tử rất có lễ độ, nhưng không còn hỏi về những vấn đề có liên quan đến Lễ nữa. Trong số các quan đại phu nước Tề có người muốn mưu hại Khổng Tử. Cảnh Công nói với Khổng Tử: “Ta đã già rồi, không thể bổ nhiệm quan tước cho ông được nữa”. Thế là Khổng Tử rời Tề trở về Lỗ.

Tại nước Lỗ, Khổng Tử tuy về mặt chính trị có rất nhiều thành tích, cũng từng làm một vài chuyện lớn, nhưng con đường làm quan không hề trôi chảy. Có lần nhà Vua chủ trì một đại lễ tế Trời, quan đại phu Tam Hoàn cố tình không chia cho ông một khối thịt tế nào. Đó là loại hình phạt nghiêm khắc nhất trong Chế độ Lễ nghi của nhà Chu. Khổng Tử biết con đường làm quan của mình không có hy vọng gì, bèn rời quê nhà đi dạy học bốn phương trời, tuyên truyền những chủ trương chính trị của mình.

Lúc đó Khổng Tử khoảng chừng 50 tuổi. Ông không nề hà khổ nhọc, dùng 13 năm để dẫn dắt học trò chu du các nước, đi du thuyết khắp nơi. Nhưng các nước đều không chấp thuận chủ trương của ông. Năm 63 tuổi, Khổng Tử trở lại nước Lỗ. Cuối cùng nước Lỗ cũng không trọng dụng Khổng Tử, mà Khổng Tử cũng không muốn ra làm quan nữa.

Tuy là một người tuổi đã gần đất xa trời, nhưng ngọn lửa tư tưởng trong 9 năm cuối đời đã phát huy được thành tựu rực rỡ. Khổng Tử dốc lòng thu nhận học trò, biên soạn điển tịch, tạo thành một hệ thống tư tưởng Nho học trong 9 năm cuối đời mình.

Thời đại Khổng Tử, nhà Chu đã suy, Lễ nhạc đã phôi pha, ‘Thi’, ‘Thư’ cũng không còn toàn vẹn nữa. Khổng Tử tìm tòi nghiên cứu chế độ lễ nghi của 3 thời đại Hạ, Thương, Tây Chu, biên định “Thượng thư”, “Lễ ký”. Khổng Tử sau khi từ nước Vệ trở về nước Lỗ, thì bắt đầu đính chính lại Thi Nhạc, khiến cho “Nhã”, “Tụng” đều khôi phục lại được nhạc điệu ban đầu. “Kinh Thi” vốn có 3000 bài được truyền lại từ thời cổ đại. Đến thời Khổng Tử, ông cắt bỏ những chỗ trùng lặp, lựa chọn trong đó những bài phù hợp cho việc dạy bảo Lễ Nghĩa.

Lúc về già Khổng Tử thích nghiên cứu “Chu Dịch”. Ông giải thích về “Thoán từ”, “Hào từ”, “Quái”, “Văn ngôn”. Khổng Tử đọc Chu Dịch rất siêng năng, đến nỗi sợi dây da trâu buộc sách đã nhiều lần bị mòn đứt. Ông nói:“Để ta sống lâu thêm vài năm nữa, ta có thể nắm vững và giải thích rõ ràng nội dung và đạo lý trong từng câu văn của “Chu Dịch””.

Khổng Tử nói: “Quân tử lo lắng nhất chính là sau khi chết không lưu lại được tiếng thơm. Chủ trương của ta không thể thực thi, ta lấy gì để cống hiến cho xã hội và lưu danh hậu thế đây?”. Bèn căn cứ vào các sách lịch sử của nước Lỗ biên soạn ra bộ “Xuân Thu”, trên từ năm Lỗ Ân Công đầu tiên (722 TCN) xuống tới năm Lỗ Ai Công thứ 14 (481 TCN), tổng cộng 12 đời vua nước Lỗ. Lấy nước Lỗ làm trung tâm để biên soạn, tôn thờ Hoàng tộc nhà Chu làm chính thống, lấy sự tích Ân Thương làm tham khảo, mở rộng và phát triển truyền thống các thời đại từ đời Hạ, Thương, Chu, lời văn súc tích uyên thâm.

Cuối cùng Khổng Tử biên soạn xong “Lục Nghệ” là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân thu. Khổng Tử dùng Thi, Thư, Lễ, Nhạc làm tài liệu giảng dạy học trò, đến học có ước chừng tới 3000 đệ tử, trong đó hiền nhân quân tử có 72 người. Chưa kể nhiều học trò chưa chính thức nhập tịch ở khắp nơi nữa.

Lúc Khổng Tử lâm bệnh, Tử Cống đến thăm viếng thầy. Khổng Tử thở dài, nói ngay: “Thái Sơn sắp đổ rồi, rường cột sắp gãy rồi, người trí tuệ sắp chết rồi!”. Nước mắt chảy dài, nói với Tử Cống: “Thiên hạ từ lâu đã mất đi đạo lý thông thường, không có ai tiếp nhận chủ trương của ta cả …”. 7 ngày sau Khổng Tử qua đời, hưởng thọ 73 tuổi, nhằm vào ngày Kỷ Sửu, tháng 4 năm 479 trước công nguyên.

Sách “Luận Ngữ” chính là do đệ tử của Khổng Tử căn cứ theo lời nói và việc làm của ông mà biên soạn thành. Đó là tư liệu trực tiếp nhất để cho chúng ta hôm nay hiểu biết về Khổng Tử. Khổng Tử cho người ta biết thế nào là “Trung dung”, vì đời sau mà đặt định ra quy phạm làm người theo “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín”. Ảnh hưởng của ông đối với văn hóa Trung Quốc và cả vùng Đông Nam Á là rất to lớn.

Tư Mã Thiên nói: “Trong kinh “Thi” có câu nói như thế này: “Cái giống như núi cao khiến người ta chiêm ngưỡng, cái giống như đại Đạo khiến người ta tuân theo”. Từ xưa tới nay trong thiên hạ, Quân Vương và người tài đức thì có cũng nhiều. Họ khi đang còn sống đều vinh hoa quý hiển, nhưng chết đi rồi thì chẳng còn lại chút gì. Khổng Tử là một người bình dân, nhưng những người đọc sách đều tôn ông làm thầy. Từ Thiên tử, Vương Hầu đến nhân dân cả nước, những ai nói về “Lục Nghệ” thì đều xem học thuyết ấy của Khổng Tử là chuẩn tắc cao nhất. Có thể nói Khổng Tử là một Thánh nhân chí cao vô thượng”.

Tư Mã Thiên đã đánh giá rất đúng.

Phật Thích Ca Mâu Ni

Trong lúc Đại Đạo Trung Quốc đang được lưu truyền tại mảnh đất Thần Châu, thì đồng thời tại Ấn Độ – cũng là quốc gia có nền văn minh lâu đời tại phương Đông – Phật Pháp mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã được truyền rộng.

Thích Ca Mâu Ni giáng sinh tại Kapilavastu (Ca tỳ La vệ), một đất nước tại vùng đất Ấn Độ xưa kia. Mẹ của ông là Hoàng hậu Mayadevi (hoàng hậu Ma Da) sinh hạ ông tại Lumbini (nằm ở Nam Nepal ngày nay) trên đường trở về nhà mẹ đẻ của bà. Người ta đồn rằng khi Thích Ca Mâu Ni giáng sinh, liền bước đi 7 bước, mỗi bước đi sinh ra một đóa hoa sen. Một tay chỉ lên trời, một tay trỏ xuống đất ông nói “Phía dưới Thiên Đàng và bên trên mặt đất, chỉ có ta là nhất”. Đây thực ra là chuyện đơm đặt của hậu thế. Trong vũ trụ này, có vô số Thần Phật của vô số Thiên Đàng, có ai dám kiêu căng khoác lác như thế không? Thích Ca Mâu Ni không bao giờ làm như vậy. Câu chuyện này thực sự chỉ là kết quả của những tình cảm tôn giáo cuồng tín của người đời sau mà thôi. Một vị Phật chỉ muốn người đời tu luyện theo lời dạy bảo của họ, chứ không muốn người ta dựng chuyện lên để mà tâng bốc.

Thích Ca Mâu Ni từ thuở nhỏ đã có tấm lòng từ bi thương xót chúng sinh và luôn đi tìm ý nghĩa chân chính của đời người. Năm ông 19 tuổi, Thích Ca Mâu Ni rời bỏ ngai vàng, rời khỏi hoàng cung đi tu luyện. Ấn Độ thời bấy giờ có đủ loại tông phái và đường lối tu luyện khác nhau. Đầu tiên Thích Ca Mâu Ni tu theo pháp “vô tưởng định” (Samadi) 3 năm và cuối cùng đã đạt tới cảnh giới này. Nhưng ông cho rằng đó không phải là Đạo, không phải là chân lý tột cùng, cho nên ông từ bỏ nó. Sau đó ông lại tu theo “Phi tưởng – phi phi tưởng định” 3 năm, thành công rồi nhưng ông thấy rằng đó cũng không phải là Đạo, nên cũng từ bỏ. 2 lần, Thích Ca Mâu Ni từ bỏ những điều mà ông biết chắc ấy không phải là Đạo. Ông không thể tìm thấy một vị chân sư nào cả, cho nên ông tự mình tới một ngọn núi băng giá phủ đầy tuyết trắng để tu hành khổ hạnh. Mỗi ngày ông chỉ ăn một ít hoa quả khô và chịu đói đến mức toàn thân khô héo. Ông khổ tu như vậy để tìm chân lý. Nhưng 6 năm trôi qua, ông nhận ra rằng khổ hạnh cũng không phải là Đạo, bèn xuống núi.

Thích Ca Mâu Ni đi tới bờ sông Hằng. Vì quá gầy yếu xanh xao, ông ngã xuống hôn mê bất tỉnh. Một người phụ nữ làm nghề chăn dê tình cờ đi qua, và cho ông một ít váng sữa. Thích Ca Mâu Ni ăn và phục hồi sức lực. Nhưng ông không có cách nào tìm thấy một vị chân sư có thể hướng dẫn cho mình, nên ông vượt qua sông Hằng, tới dưới một tán cây Bồ Đề, ngồi xuống và thiền định. Ông thề rằng nếu không trở thành một bậc “Vô thượng chính đẳng chính giác” thì ông thà chết tại nơi này.

Thích Ca Mâu Ni thiền định dưới tán cây Bồ Đề ấy trong 49 ngày. Buổi sáng ngày thứ 49, ông ngẩng đầu lên nhìn trời, và nhìn thấy được những ngôi sao sáng trên bầu trời. Cũng trong một cái nhìn ấy, thần thông và các quyền năng siêu phàm của ông lập tức nổ tung, và tư tưởng của ông khai mở. Ông lập tức nhớ lại mọi điều mà ông đã từng tu luyện trước kia, hiểu được kiếp sống hiện tại và nhiều kiếp trước của mình, và tất cả những điều khác nữa mà ông cần phải biết sau khi khai ngộ. Bởi vì năng lượng phóng ra trong quá trình khai công khai ngộ, một chấn động lớn xuất hiện trong phạm vi địa lý rộng lớn xung quanh ông. Người ta cho rằng ấy là một trận động đất nhẹ, núi đổ hay sóng thần, nhưng thực ra đó là do sự khai ngộ của Thích Ca Mâu Ni. Đương nhiên năng lượng của Phật là từ bi và không làm hại ai cả. Sau 12 năm tu luyện vô cùng gian khổ, Thích Ca Mâu Ni rốt cuộc đã ngộ Đạo. Sau đó, Phật Thích Ca Mâu Ni liền bắt đầu cuộc đời truyền Pháp 49 năm của mình.

Đặc điểm của pháp môn tu luyện mà Thích Ca Mâu Ni truyền dạy là Giới, Định, Huệ. Giới chính là cấm tất cả dục vọng và tâm cố chấp, định là nói về người nhập định tu hành, huệ là nói về người khai ngộ khai huệ. Đại tạng kinh có mấy vạn quyển, đều không lìa xa 3 chữ này. Đương nhiên, hình thức biểu hiện của nó rất phong phú phức tạp, nhưng thực chất chính là 3 chữ này.


“Mọi người đều biết rằng Bà La Môn giáo là Thích Ca Mâu Ni phản đối nhiều nhất. Ông cho rằng [nó] là một tà giáo, nó cùng với Phật Giáo của Thích Ca Mâu Ni là đối lập [với nhau] nhất. Kỳ thực tôi cho chư vị biết rằng: Thích Ca Mâu Ni chống đối Bà La Môn giáo chứ không phải chống đối Thần của Bà La Môn giáo. Thần mà Bà La Môn giáo tin theo vào thời kỳ nguyên thủy nhất đều là Phật, [họ] tin theo chính là các vị Phật trước thời Thích Ca Mâu Ni. Nhưng qua thời gian quá lâu dài, con người không còn tin Phật nữa, khiến cho tôn giáo này trở thành tà giáo, thậm chí [họ] sát sinh để tế lễ Phật. Cuối cùng, Thần mà họ tin tưởng và tôn thờ kia cũng không còn là hình tượng Phật nữa, [họ] bắt đầu tin theo và thờ phụng yêu ma quỷ quái có hình tượng quái vật. Con người đã làm cho tôn giáo trở thành tà”. (Giảng Pháp tại Pháp hội Houston).

Lời nói và việc làm của mọi người đều trái với những điều mà các vị Phật thời tiền sử dạy bảo. Như vậy, Bà La Môn giáo tiến vào thời Mạt pháp. Trong thời gian ấy, Phật Pháp của Thích Ca Mâu Ni bắt đầu truyền rộng ra tại Ấn Độ. Bởi Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền chính là chính Pháp, trong quá trình truyền Pháp, Thích Ca Mâu Ni không ngừng bác bỏ các giáo lý của các tôn giáo khác, cho nên không ngừng có những người rời bỏ ngoại đạo đến quy y Phật giáo. Như một trong những đồ đệ của ông, người mà sau này trở thành Xá Lợi Phất ban đầu là người của Bà La Môn giáo. Ông cùng Thích Ca Mâu Ni tranh luận, biết Phật Thích Ca Mâu Ni đang truyền chính pháp, bèn rời bỏ Bà La Môn giáo và trở thành người đệ tử có trí tuệ cao nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Như vậy, Phật Pháp mà Thích Ca Mâu Ni truyền càng lúc càng cường thịnh, còn các tôn giáo kia càng lúc càng suy tàn. Phật Pháp dần dần bị các tôn giáo kia kỳ thị và phản đối. Trong thời gian mâu thuẫn tôn giáo lên đến đỉnh điểm, xuất hiện sự kiện các đệ tử Phật giáo bị sát hại một cách công khai. Người đệ tử có Thần thông nhất là Mục Kiền Liên bị những kẻ ngoại đạo lăn đá từ trên núi xuống đè chết, trở thành đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni chết vì lý tưởng của Phật giáo. Ngoại đạo còn bắt bớ đệ tử của Phật Thích Ca, ném họ vào hầm lửa, hoặc trói vào cột rồi dùng cung tên bắn chết. Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn tại thế, 500 đệ tử của Phật từng bị người ta chém đầu. Sự kiện bức hại ấy khiến người ta vô cùng đau xót!

Sau khi Phật Thích Ca Mâu Ni không còn trên thế gian, các tôn giáo khác bắt đầu hưng thịnh trở lại. Phật giáo ở Ấn Độ trải qua nhiều lần cải tổ, cuối cùng đã kết hợp với những thứ của Bà La Môn giáo, biến thành một loại tôn giáo mới là Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo không còn tin Thích Ca Mâu Ni, cũng không thờ phụng một vị Phật nào cả. Do vậy, Phật giáo sinh ra tại Ấn Độ, cuối cùng lại dần dần bị tiêu biến ở Ấn Độ. Song tại Đông Nam Á, tại Trung Quốc, Phật Pháp đã truyền rộng khắp nơi, ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa của những quốc gia này.

Thứ Hai, 21 tháng 10, 2013

Giấc mộng hạt kê vàng

Đời Nhà Đường có người tên là Lư Sinh, hôm nọ anh ta đến một quán trọ ở Thành Hàm Đan để gặp một Đạo sỹ tên là Lữ Ông. Lư Sinh than phiền với Lữ Ông về sự nghèo khó và không thể nào đạt được mong muốn của mình. Lữ Ông lấy ra một cái gối và nói rằng Lư Sinh có thể đạt được giấc mơ của mình về sự giàu sang và phú quý nếu anh ta ngủ trên cái gối đó. Lư Sinh nằm xuống trên cái gối. Một chốc, người chủ quán trọ liền đi đặt cái chảo trên bếp lò và rang một ít hạt kê. Lư Sinh liền có một giấc mơ nơi mà anh sống trọn cuộc đời của mình. Trong giấc mộng đó, Lư Sinh thấy mình đi thi đậu Trạng Nguyên, cưới được vợ đẹp và giàu, được vua bổ nhiệm làm quan, thăng quan tiến chức trong năm mươi năm, lên chức Tể Tướng, vinh hiển tột bực, con cháu đầy nhà. Sau bị gian thần hãm hại, vua bắt tội, tịch thâu hết gia sản, đày đi xa thật vô cùng khổ sở. Khi anh ta thức dậy, anh ta nhận ra rằng giấc mơ của mình thật là ngắn ngủi đến mức những hạt kê được rang chưa vàng.

Vở diễn Giấc mộng hạt kê vàng của Đoàn Nghệ Thuật Thần Vận

Khi Lư Sinh tỉnh mộng, cảnh tượng mà anh ta nhìn thấy mọi thứ vẫn y nguyên như trước và mọi việc chỉ là một giấc mơ. Lúc đó, Lữ Ông đạo sỹ giảng cho anh ta rằng khi người ta dính mắc vào Danh, Lợi và Tình của thế giới loài người, đó cũng như là đang ở trong giấc mộng vậy. Lư Sinh cảm động và trở nên sáng tỏ. Thật là một điều khoan khoái và tốt đẹp đối với Lữ Ông đạo sỹ khi thấy Lư Sinh có ngộ tính tốt như thế.

Lư Sinh cảm tạ Lữ Ông và nói, “Vinh hay là Nhục, được hay là mất, sinh hay là tử, bây giờ tôi đã hiểu rõ rồi. Lữ Ông đạo sỹ dùng giấc mộng như là một phương pháp để giảng Đạo. Bây giờ tôi đã biết làm gì trong tương lai. ” Rồi Lư Sinh cúi đầu chào Lữ Ông và ra về. Từ đó đánh dấu một cái mốc quan trọng trong sự tu luyện của anh ta.

Câu chuyện trên mang ý vị của Đạo, và người thời nay xem như thần thoại, nhưng thực sự có rất nhiều ý nghĩa. Ngày xưa, ông bà ta thường nói "tích đức, tạo phúc", "để đức cho con cháu",..v..v. Văn hóa lúc đó trọng đức hơn, chú trọng vào việc bồi dưỡng đạo đức và lao động cần cù, làm việc thiện. Một hàm nghĩa của câu chuyện là đời người ngắn ngủi, Danh Lợi Tình chỉ một thoát chốc là thoáng qua, nhiều người vì nó mà tranh đấu, thù hận mà bỏ quên mất đi phần "cái tôi chân chính" của mình vốn là hòa hợp với tự nhiên và gần với Đạo.

Khi tĩnh tâm lại và nhìn cuộc sống, ta thấy dường như đây là một môi trường để thử thách và rèn luyện cái tâm, trải qua bao sóng gió, như sắt mài thành kim, phải chịu bao khó nhăn nhọc nhằn. Thông qua khó khăn gian khổ người ta có thể trao dồi ý chí, học cách làm người tốt, và cải thiện bản thân mình. Công danh phú quý tự nó không gây hại, mà hại là ở cái tâm người ta bị mắc vào công danh phú quý. Như ông bà ta nói, người có Đức phúc lớn và sẽ giàu có. Bằng nỗ lực lao động, học tập, và làm việc thiện cho xã hội người ta có thể tích đức, đức cũng có thể tích lại từ tổ tiên cho con cháu.

Một hàm ý ẩn sâu, và là xuyên suốt trong câu chuyện, dường như vẫn là một câu hỏi thiên cổ: mục đích chân chính của sinh mệnh con người là gì? Trải qua lịch sử mấy nghìn năm của văn hóa nhân loại, những câu chuyện thần thoại, chuyện dân gian truyền miệng, hay các tôn giáo đều khuyên người ta làm việc Thiện, tích đức... qua các câu chuyện, các hình ảnh như Quan Vân Trường trọng Nghĩa khí tha Tào Tháo, các câu chuyện về lòng trung thành. Những câu chuyện như thế giúp con người định ra văn hóa, và biết phân biệt rõ tốt xấu, có tri thức, có trí huệ. Trải qua lịch sử dài như thế, thực sự thì mục đích của con người là để tu luyện, để quay trở về. Qua khó khăn gian khổ ở thế gian mà trả nghiệp mắc phải do trước đây làm việc xấu; qua khó khăn gian khổ mà tu luyện tâm tính, rèn luyện ý chí, qua khó khăn gian khổ mà tu luyện được trí huệ.

Người khác nhau với ngộ tính khác nhau, sẽ hiểu câu chuyện ở mức độ khác nhau. Câu chuyện dường như là lời nhắn gửi của người xưa đến cho chúng ta. Chúng ta có thể chọn để hiểu ý nghĩa của nó và nỗ lực làm việc với trách nhiệm, tinh thần cao, vì đời người ngắn ngủi, cơ duyên cũng chỉ có một lần mà thôi.

Biến Nghịch Cảnh Thành Quà Tặng



Mặc dù cuộc sống của chúng ta là ngắn ngủi và chúng ta chỉ sống vài thập kỷ trên trái đất này, nhưng tất cả chúng ta đều trải qua nhiều gian truân. Ý nghĩa của cuộc sống không chỉ đơn thuần là chịu đựng gian khổ, tuy nhiên đối với nhiều người thì vượt qua chúng là con đường cần thiết để đi đến thành công.

Vào tháng giêng năm 1982, tôi khoảng 20 tuổi và mới tốt nghiệp đại học, nhưng tôi không nhận được bằng. Tôi bị buộc phải từ giã cha mẹ mình ở tỉnh Sơn Đông và đến làm việc ở tỉnh Thanh Hải hẻo lánh và biệt lập. Tôi vẫn không biết mình đã vô tình động chạm đến viên chức nào trong bốn năm học đại học, nhưng vì một lý do nào đó mà tôi bị phân công đến làm việc ở tỉnh Thanh Hải – nơi tôi không biết một ai.

Tôi trở nên cực kỳ buồn bã và không biết làm thế nào để tiếp tục cuộc sống của mình.

Bởi tỉnh Thanh Hải nằm trên các cao nguyên hẻo lánh vùng Tây Bắc, nên có rất ít mưa và thời tiết cực kỳ khô hanh. Tôi uống nước cả ngày nhưng vẫn thấy khát và không thể làm ngưng chảy máu mũi.

Tôi không có gia đình ở bên cạnh và không thể trở về nhà. Tôi buồn đến mức nhanh chóng ngã bệnh. Từ lúc đó, tôi bắt đầu nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống. Tôi nhớ về những gì Mạnh Tử, một nhà triết học cổ đại Trung Quốc nói, “Trước khi trời ban trách nhiệm trọng đại lên một ai đó, trời sẽ tôi luyện thể xác người đó và thuần hóa tinh thần của anh ta.”

Tôi đã đọc nhiều tác phẩm Trung Quốc cổ đại, những thứ cổ vũ tôi phấn đấu vươn lên trong nghịch cảnh. Tôi nhận ra rằng thú vui vật chất không thể đem đến khi sinh và mang theo khi tử. Chúng tản mác như mây. Tuy nhiên, thành tựu của những người kiên trì sẽ được ghi lại trong sử sách, truyền lại cho thế hệ sau, và sẽ không biến mất theo thời gian.

Tôi quyết định tự học tiếng Nhật bằng cách dùng một bộ sách giáo khoa tiếng Nhật xuất bản bởi Đại học nghiên cứu quốc tế Thượng Hải, và tôi chỉ mất ba tháng để hoàn thành cả khóa học. Trong thời gian đó, tóc tôi mọc dài xuống vai vì tôi không có thời gian để cắt.

Sau đó, tôi đỗ kỳ thi sát hạch tiến sĩ của bộ giáo dục Nhật Bản với điểm số cao nhất và bước chân vào Đại học Kyoto danh tiếng thế giới với học bổng toàn phần.

Khi tôi nhìn lại, tôi có nhiều cảm xúc. Bây giờ tôi là một học viên Pháp Luân Công và không còn hận những người đã làm tôi đau khổ trong quá khứ. Tôi thường nghĩ rằng nếu họ không tạo cho tôi một môi trường để tôi chịu đựng, thì tôi sẽ không có cơ hội được trải nghiệm gian truân. Hơn nữa, tôi sẽ không thể đạt được những gì mà tôi đã đạt được.


Tôi thật lòng cảm ơn họ vì những gì họ đã làm. Tất nhiên, tôi sẽ luôn nhớ đến những đồng nghiệp và bạn bè, những người đã giúp đỡ tôi. Niềm tin của tôi vào Chân – Thiện – Nhẫn giúp tôi cảm thấy biết ơn những người xuất hiện trên con đường của mình.

Mặc dù con người hiện đại không muốn nếm trải khổ cực trong cuộc sống của họ, nhưng thật là khó để đạt được bất kỳ điều gì mà không có gian khổ. Của cải vật chất chỉ có thể được dùng trong ngắn hạn, nhưng kinh nghiệm đi cùng nghịch cảnh là thứ vô hình và luôn động viên chúng ta. Qua gian khổ, người thường đạt được thành công và người tu luyện đạt được uy đức. Vì thế, chẳng phải nghịch cảnh là một kho báu trong cuộc sống?

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

Ngụ ngôn suy nghẫm về cuộc đời



1. Ngày xửa ngày xưa, Thần đã tạo ra con người. Thần để mỗi người vác một cây thập tự giá nặng và tiến về vùng Đất Thánh dưới sự chỉ dẫn của Ngài một cách chậm chạp và khó nhọc trên suốt cuộc hành trình dài trong cuộc sống của họ.


2. Một người đàn ông đã dừng lại giữa cuộc hành trình và nghĩ: “Cây thập tự giá này nặng quá! Sẽ mất bao lâu để mang nó đây?”


3. Vì vậy, người đàn ông này quyết định gọt bớt nó đi một chút.


4. Thời gian trôi đi, anh ta cứ gọt cây thập tự giá càng ngày càng ngắn.


5. Cây thập tự giá quả thực đã nhẹ hơn sau khi người đàn ông đó gọt bớt nó đi, và anh ta có thể tăng tốc.

6. Người đàn ông tiếp tục đi bộ trong một thời gian dài.



7. Anh ta nghĩ: “Thưa Thần, xin cho con gọt nó nhiều hơn một chút nữa, như thế con sẽ có thể mang nó được tốt hơn.”


8. Anh ta lại gọt nhiều hơn một chút nữa.


9. Bây giờ anh ta thấy cây thập tự giá đã nhẹ hơn rất nhiều.


10. Anh ta dễ dàng vượt qua những người khác. Trong khi những người khác phải nỗ lực vượt lên dưới tải trọng của cây thập tự giá mà họ mang, anh ta còn ngân nga khi bước qua họ.


11. Sau đó, một hẻm núi sâu xuất hiện trước mặt anh ta và không có cây cầu hay con đường nào xung quanh nó cả. Không gì có thể cứu giúp anh ta. Anh ta có thể làm gì đây?


12. Những người khác đã bắt kịp. Họ đặt các cây thập tự giá của họ vắt qua hẻm núi và dùng chúng như những cây cầu để đi qua.


13. Anh ta muốn làm giống như họ; tuy nhiên, cây thập tự giá của anh ta đã bị gọt đi quá nhiều. Nó không thể giúp anh ta vượt qua hẻm núi được.

14. Khi những người khác tiếp tục cuộc hành trình của họ đến vùng Đất Thánh thì anh ta phải dừng lại tại hẻm núi đó trong sự đau khổ. Đã quá muộn để hối tiếc!

Lúc đó, một giọng nói vang lên trong đầu anh ta: “Mình đã từng có một cây thập tự giá nguyên vẹn trên vai. Mình đã không coi trọng nó. Mãi cho đến khi mình cần nó thì mình mới phát hiện ra là mình đã ngu ngốc như thế nào. Mình đã làm trái Thiên ý vì sự an nhàn của mình. Mình đã đánh mất điều quý giá nhất trong cuộc đời. Bây giờ mình không bao giờ có thể đi đến đích được nữa. Không điều gì đau khổ hơn điều này!”

Bình Luận: Cây thập tự giá ẩn ý cho sự gian khổ mà một người phải chịu đựng trong cuộc sống để có thể vươn lên, đề cao tâm tính và cảnh giới tư tưởng. Chính là trong gian khổ mới có thể hoàn trả nợ nghiệp, trong gian khổ có thể tu luyện tâm tính, vứt bỏ các chủng dục vọng và chấp trước. Nhưng người trong câu chuyện trên vì tâm truy cầu an nhàn, thoải mái, đã khôn khéo thương lượng với Thần để đạt được lợi ích cá nhân của mình (thấy thoải mái hơn). Tu luyện không dựa vào hình thức bề ngoài, và cũng không phải là cầu xin sự ban phúc của Thần, mà là phải chân chính thực tu bản thân thông qua gian khổ để đạt tiêu chuẩn tâm tính; giống như thầy trò Đường Tăng phải vượt qua 81 khổ nạn mới lấy được chân Kinh. Cuối cùng thì anh ta không đạt tiêu chuẩn và vì thế không đạt được mục đích chân chính của cuộc đời mình.

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

Hãy điều khiển cảm xúc của mình

Trong cuộc sống, khi bạn bị đau đớn, bị phê phán hay bị hạ nhục bởi hành động của kẻ khác, bạn sẽ phản ứng lại như thế nào? Bạn mất bình tĩnh và trả thù một cách giận dữ hay nuốt hận mà giữ kín trong lòng? Sau đó, bạn có thấy bực mình mỗi khi nghĩ về chuyện ấy và nó gây ảnh hưởng xấu đến tâm tính của bạn? Nếu là một người bình thường thì rất khó kiểm soát tốt những cảm xúc dưới loại hoàn cảnh này. Tuy nhiên, với một người tu tập tốt, người ấy sẽ có khả năng giáp mặt nỗi khổ cực một cách ung dung và xử sự với sự bình tĩnh lớn trước cơn khủng hoảng.


Có một câu chuyện như thế này: Một ngày nọ, khi Phật Thích Ca đi qua một ngôi làng nọ, một số người đi ra gặp Đức Phật và nói những lời vô lễ, và thậm chí có kẻ còn chửi thề. Phật Thích Ca đứng đó lặng lẽ lắng nghe, và sau đó Ngài nói: “Cám ơn các bạn đã đến gặp ta. Nhưng giờ ta phải tiếp tục lên đường bởi vì mọi người ở làng tiếp theo đang đợi. Nhưng khi ta trở lại ngày mai, ta sẽ có nhiều thời gian hơn. Nếu các bạn có nhiều thứ hơn để nói, xin đến lần nữa. Những người này không thể tin vào tai của mình nữa."

Chuyện gì xảy ra với người này thế nhỉ? Một trong số những kẻ đó hỏi Đức Phật: “Ông có nghe bọn tôi nói gì không? Bọn tôi nói ông chẳng là cái thá gì cả, thế mà ông không phản ứng gì à?”

Đức Phật trả lời: “Nếu những gì các ngươi muốn chỉ là xem thái độ của ta, thì các người đã đến quá trễ rồi. Nếu là 10 năm trước thì có lẽ ta sẽ phản ứng lại. Còn 10 năm trở lại đây thì ta đã không còn bị kẻ khác điều khiển nữa rồi. Ta không còn là nô lệ mà là chủ nhân của chính ta."

Ta có thể làm những gì mình muốn, chứ không hành động dựa trên cảm xúc. Tôi có nghe kể một câu chuyện thế này: Có một anh chàng luôn mua báo tại duy nhất một sạp báo. Dù người bán báo luôn giữ bộ mặt lạnh lùng và thiếu thân thiện, anh này luôn lịch sự nói “cám ơn” với ông kia.

Một ngày kia, khi một đồng nghiệp anh ta đã nhìn thấy thế và hỏi :”Ông ta vẫn luôn bán hàng với bộ mặt đó à ?”.

- “Đúng”.

- “Tại sao bạn vẫn đối xử với ông ta lịch sự như vậy?”
Anh này trả lời: “Tại sao tôi phải để cho ông ta quyết định hành động của tôi chứ ?”

Thật chí lý! Tại sao chúng ta lại cho phép kẻ khác gây ảnh hưởng đến những hành động và cảm xúc của chúng ta? Chúng ta không thể cấm kẻ khác đối đầu với mình, nhưng chúng ta có thể kiểm soát những cảm xúc của riêng mình và không để bị họ ảnh hưởng. Tất nhiên, nó yêu cầu một quá trình tu luyện để đạt được điều này. Chúng ta hãy bắt đầu từ việc thay đổi nội tâm mình và để cho những cảm xúc mình bị chế ngự.

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

Tế Công truyền kỳ: Điều bạn có đã định trước

Rất nhiều người cho rằng được-mất của cá nhân được quyết định bởi phấn đấu và nỗ lực cá nhân, chứ không tin vào vận mệnh con người và đời người là do nghiệp lực lớn nhỏ và quan hệ nhân duyên quyết định. Dẫu có dùng mọi thủ đoạn để đoạt thứ vốn thuộc về người khác, thì thực tế nếu những thứ ấy không phải của bạn, bạn kiểu gì cũng không đoạt được nó. Dưới đây là một câu chuyện nhỏ liên quan đến Tế Công, giảng về đạo lý “điều gì không của bạn thì sẽ không thuộc về bạn” (Ghi chú: Tế Công là một hòa thượng nổi tiếng thời Nam Tống ở Trung Quốc).

Một ngày, Tế Công đổi y phục mình lấy 150 xâu tiền, kêu lớn trước tiệm cầm đồ: “Ai đến mang tiền giúp tôi?” Một đại hán từ bên cạnh tới, nói: “Hòa thượng, để tôi mang giúp ông”. Tế Công đáp: “Tâm ông xấu lắm, không để ông mang”. Tế Công bèn quay sang mấy người nghèo, cho họ người thì ba xâu, người thì hai xâu, phân phát một lúc, cuối cùng chỉ còn lại năm xâu tiền. Tế Công lại nói: “Gọi đại hán kia đến lấy đi”. Người đàn ông vạm vỡ vội lao đến cướp tiền, nhưng Tế Công không đuổi theo. Những người đã cầm tiền hỏi: “Hòa thượng, mang tiền đi đâu đây?” Tế Công đáp: “Tùy các ông các bà thôi”. Mọi người nghe vậy liền tản đi.


Sau đó, Tế Công kiếm một ngõ hẻm và ngồi tại đó. Đại hán kia vác năm xâu tiền trên lưng, chạy qua 17 ngõ, cuối cùng bắt gặp Tế Công. Tế Công nói: “Được lắm! Ngươi không may rồi, ngươi phải đứng đó một lúc, ta mới cho ngươi năm xâu tiền; còn nếu ngươi muốn cầm tiền chạy, thì không được đâu. Mệnh của ngươi chỉ có 500 đồng thôi, nếu ngươi cầm năm xâu tiền chạy, ta sẽ bắt ngươi tới kiện ở huyện Tiền Đường”. Đại hán nghe xong sợ lắm, dùng sức ba chân bốn cẳng chạy mất. Tế Công hét: “Đuổi theo!” Đại hán hoảng quá, vội rẽ gấp vào ngõ thì đụng phải một người bán dạo đồ gốm, làm vỡ 17 cái bát và 2 chiếc đĩa. Đại hán không còn cách nào, đành đền cho chủ 4 xâu rưỡi tiền, chỉ còn lại 500 đồng. Chẳng trách Tế Công nói tâm anh ta xấu lắm và đã định trước chỉ được 500 đồng.

Chú thích:

* Vận mệnh: văn hóa xưa của người Á Châu tin vào vận mệnh, nó bắt nguồn từ Phật Giáo và Đạo giáo. Người ta tin vào luân hồi, rằng vận mệnh tốt hay xấu của một người kết quả từ những việc tốt hay xấu người đó đã làm trong kiếp này hay trong kiếp trước; "thiện thì có phúc báo, hành ác thì tạo nghiệp". Để thay đổi vận mệnh, người ta cần thay đổi tâm tính, tích đức, làm việc tốt...

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

Truyện ngụ ngôn: Cổng Thiên Đàng

Một nông dân đang vội vàng trên đường cùng con ngựa và con chó của mình. Thình lình sét đánh giết chết tất cả họ. Như nhiều linh hồn mới chết khác, họ chẳng biết mình đã chết và cứ tiếp tục đi.

Họ tiếp tục đi dưới mặt trời thiêu đốt. Họ ướt đẫm mồ hôi và khát không chịu nổi. Họ sau đó nhìn thấy một cánh cổng đẹp đẽ dẫn đến một quảng trường chiếu sáng rực rỡ. Có một dòng suối trong vắt ở giữa quảng trường đó. Ông vội vã chạy đến và chào người giữ cửa: “Nơi đẹp đẽ này là nơi nào vậy?”

“Thiên đàng”. Người gác cổng nói một cách thân thiện. “Thật là tốt quá. Chúng tôi đều đang rất khát nước. Chúng tôi có thể đi vào trong và uống một chút nước không?”

“Ông có thể vào, nhưng con ngựa và con chó của ông thì không được. Chúng tôi không cho phép động vật vào trong”.

“Ồ, thế thì quên chuyện đó đi vậy”.

Người nông dân không đành bỏ lại con ngựa và con chó. Họ vì thế tiếp tục đi tìm nước uống. Sau khi đi khá lâu, ông tìm thấy một nơi có nguồn nước. Cũng lại có một người đang canh giữ cánh cổng.



“Xin chào, tôi và con ngựa, con chó của tôi có thể uống nước ở đây được không?”

“Cứ việc”, người gác cổng nói.

Sau khi họ uống thỏa thích, người nông dân nói cảm ơn người gác cổng và hỏi anh ta: “Nơi này là nơi nào thế?”

“Thiên đàng”. Người nông dân bối rối: “Lẽ nào lại thế! Chúng tôi vừa đi ngang qua một cánh cổng đẹp đẽ và người gác cổng ở đó bảo rằng nơi ấy là thiên đường mà”.

“Đó là địa ngục”, người gác cổng trả lời.

“Chúa ơi, anh nên ngăn cấm họ làm người khác lầm lẫn như thế. Người ta sẽ bị lừa”.

“Không chắc nữa,” người gác cổng nói. “Chúng tôi nên cảm ơn sự giúp đỡ của họ, bởi họ sẽ giữ những kẻ bỏ rơi bạn bè ở lại đó”.

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

Câu chuyện thành ngữ: "Người mù sờ voi"

【Câu chuyện】

Ngày xưa có một vị quốc vương yêu cầu một vị đại thần triệu tập một số người bị mù đến để sờ voi; sau khi sờ xong, vua hỏi từng người bị mù xem họ đã sờ được gì. Người sờ vòi trả lời: “Con voi sinh ra giống củ cải trắng”, người sờ tai thì bảo: “Con voi sinh ra giống cái ki hốt rác”, người sờ đầu thì nói: “Con voi sinh ra giống như hòn đá”, người sờ mũi thì nói: “Con voi sinh ra giống như cái chày”. Người sờ chân nói: “Con voi sinh ra giống cái cối bằng gỗ”. Người sờ lưng thì nói: “Con voi sinh ra giống như cái giường”. Người sờ bụng thì nói: “Con voi sinh ra giống cái vò gốm”. Bởi vì mỗi người sờ mỗi chỗ khác nhau, nên đối với hình dáng của con voi có cách nhìn bất đồng. Kỳ thực cái mà họ sờ đều là con voi, nhưng là con voi không hoàn chỉnh. Tương tự như Phật tính, người mù là chỉ chúng sinh, nếu người ta quá chấp trước vào một chút sự việc bề ngoài hoặc câu chữ mà cho đó thật sự là Phật tính, thì cũng tương tự người mù sờ voi, chỉ thấy được một phần của Phật tính, liền bám cứng vào điều mình nhận thức được, thậm chí cho rằng điều người khác nhận thức đến không phải là Phật tính, như vậy ngược lại đã bị mất phương hướng và mất đi khả năng xem xét bản chất của Phật tính.

Về sau, câu chuyện này được đúc kết thành thành ngữ “Người mù sờ voi” (“Manh nhân mô tượng”), dùng để ví von lấy cái nhìn thiên vị mà cho rằng đó là toàn bộ sự việc không thể hiểu rõ chân tướng.


【Thảo luận】

1- Trong cách nhìn của mỗi người đối với mỗi chuyện đều có chỗ chưa rõ, khi bạn không ở trong hoàn cảnh đó, có lẽ sẽ càng không có cùng cách nhìn nhận; khi phát sinh chuyện gì đó, bạn có thể tiếp nhận lời đề nghị của người khác, hay vẫn khăng khăng giữ ý kiến của mình? Có ưu khuyết điểm gì?

2- Vì sao cùng là sờ vào một con voi, mà nhận thức mỗi người về hình dáng của nó đều khác nhau vậy? Trong sinh hoạt hàng ngày, phải chăng có rất nhiều chuyện bạn cùng bạn bè cũng có cách nhìn bất đồng? Hãy cùng mọi người chia sẻ nhé!

【Luyện tập đặt câu】

Ví dụ 1: Những người có cùng phương pháp nghiên cứu như bạn, giống như người mù sờ voi, rất khó thông hiểu đạo lý.

Ví dụ 2: Anh ta lại nhất mực duy trì ý kiến thiên vị để nói toàn bộ, loại hành vi này giống như người mù sờ voi, sẽ không thể có được hiểu biết đúng đắn đâu.

【Thành ngữ tương tự】


“Dĩ thiên khái toàn” (Dùng cái nhìn thiên vị mà cho rằng đó là toàn bộ sự việc),
“Dĩ quản khuy thiên” (Lấy tầm nhìn hạn hẹp mà xem xét đạo trời).

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2013

Tinh hoa của cờ vây không nằm ở thắng hay thua

Cầm, Kỳ, Thi, Họa, là bốn bộ môn nghệ thuật văn hóa của Trung Hoa thời xưa. Kỳ chính là chỉ về Vi Kỳ, có nghĩa là cờ vây, mà ngày nay chúng ta gọi giản dị là cờ Go. Đi cùng với tư tưởng của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và những môn văn hóa nghệ thuật khác, đó là một phần trong lịch sử văn minh hàng ngàn năm của Trung Hoa.
Vi Kỳ có một lịch sử rất lâu dài. Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của nó, trong đó có một thuyết được khá nhiều người công nhận là môn này khởi đầu từ thời Nghiêu Đế. Trương Hoa, thời nhà Tấn, đã viết trong sách “Bác vật chí” rằng: “ Vua Nghiêu nghĩ ra môn chơi cờ vây để dạy dỗ Đan Chu, con trai của mình”. Trong đó còn nói vua Thuấn cảm thấy con mình là Thương Quân không được thông minh lắm, cũng từng dạy dỗ con bằng bàn cờ vây. Trong “Lộ sử hậu ký” của La Bí, thời đại nhà Tống, có nói rằng: Phi tần của vua Nghiêu là Phú Nghi Thị sinh được một hoàng tử, đặt tên là Đan Chu. Hành vi của Đan Chu không được tốt, nên vua Nghiêu đã đi tìm những vị đạo tiên để hỏi cách chỉ bảo cách dạy con. Một hôm, ở gần bờ sông Phấn, ông nhìn thấy hai vị tiên đang ngồi đối diện nhau dưới cây tùng. Ông ngắm họ vạch những đường ngang dọc trên cát, rồi đặt những miếng đá đen trắng trên hàng vẽ như đang bày trận đồ. Nhà vua tiến đến hỏi cách làm thế nào để có thể sửa đổi tính tình Đan Chu. Một vị tiên nói : “Đan Chu hay tranh giành mà lại ngu ngốc, hãy dùng những phương diện gì hắn có sở trường mà uốn nắn tính tình của nó theo con đường tốt”. Còn vị tiên kia lấy tay chỉ những đường kẻ trên cát và các viên đá đen trắng nói rằng: “Cái này gọi là bàn cờ Vi Kỳ. Bàn cờ này hình vuông mà yên tĩnh, trong khi những viên đá kia hình tròn mà chuyển động. Nó đi theo cách vận chuyển của Trời và Đất. Từ khi bàn cờ vây được thành lập đến nay, chưa có ai có thể hoàn toàn phá giải nó được”. (trích từ Lịch đại Thần Tiên thông giám ). Sau đó Đan Chu đã được vua Nghiêu dạy chơi cờ vây, và quả thật tính nết cũng thay đổi thành tốt hơn. Từ đó mà thấy, người xưa sáng tạo ra môn cờ vây, không phải chỉ để tiêu khiển giết thời giờ hay học cách tranh giành hơn thua, mà để tu thân dưỡng tính, phát sinh trí tuệ, và biểu lộ tài năng nghệ thuật của người chơi. Vả lại, cờ vây còn có tương quan liên hệ đến thiên tượng dịch lý, binh pháp chiến lược,và vấn đề trị quốc an dân.

Trong sách “Tả truyện”, sách “Luận Ngữ” của Khổng Tử, và sách “Mạnh Tử”, cũng chỉ rõ rằng cờ vây rất thịnh hành ở thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc. Vào lúc phồn thịnh nhất của triều đại nhà Đường, cờ vây cũng rất phát triển. Vua Đường Huyền Tông đặc biệt đặt ra một chức quan trông coi về bộ môn cờ vây, gọi là “Kỳ đãi chiếu”, chức quan này mang bậc cửu phẩm, cùng với chức quan “Họa đãi chiếu”(trông coi tranh vẽ), và “Thư đãi chiếu” (trông coi thư pháp) đều thuộc về Hàn Lâm viện, do đó mới có tên chung là Hàn Lâm.

Một số những kỳ thủ cờ vây giỏi ngày nay cho rằng bàn cờ vây nhìn giống như một vũ trụ, do 360 thiên thể họp lại mà thành. Có 19 đường dọc và 19 đường ngang trên bàn cờ, và 361 điểm tổng cộng. Một điểm dư ở trung tâm, gọi là Thiên Nguyên, tức là Thái Cực, đại biểu cho trung tâm của vũ trụ. Con số 360 chính là số ngày trong một năm âm-lịch, được chia ra làm bốn. Bốn góc là xuân, hạ, thu, đông. Những con cờ đen và trắng đại biểu cho ngày và đêm. Như vậy cả bàn cờ giống như là hình tượng biến hóa của Trời và Đất.

Xem cách bố cục những điểm đen và trắng trong quyển sách cổ ‘Hà Đồ’ và quyển ‘Lạc Thư’ thuộc bộ ‘Chu Dịch bổn nghĩa’ , rất có thể cờ vây và 2 quyển sách này đều có những nguồn gốc thâm sâu. Giống như quyển Lạc Thư, bàn cờ vây có 361 giao điểm, 8 ngôi sao tinh tú chỉ phương vị, và 72 giao điểm dọc theo vòng chu vi, mà tương ứng với 360 ngày, 8 quẻ bát quái (càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn), và 72 loại thời tiết. Con cờ hình tròn, phía trên nhô lên, phía dưới phẳng ngang, phân biệt nhau bằng hai mầu trắng và đen, tượng trưng cho Âm và Dương. Trong sách Kỳ Kinh, thuộc thời đại Nam-Bắc triều, tìm thấy trong động đá Mỗ Cao ở thành phố Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, có nói rằng “ 361 đường là phỏng theo con số của Chu Thiên”.

Từ góc độ của người tu luyện mà xét, thì cũng như Chu Dịch, Hà Đồ, Lạc Thư, Bát Quái, cờ vây không phải là văn hóa của nền văn minh nhân loại thời kỳ này sáng tạo ra, mà là văn hóa thuộc về nền văn minh tiền sử. Thật ra, chúng đều là văn hóa do chư Thần truyền xuống cho nhân loại. Trong sách “Lê Hiên Mạn Viễn” có viết rằng: “Vi Kỳ ban đầu không phải là sự việc của nhân gian. Nó được phát hiện đầu tiên trong khi khai quật phần mộ của vua Chu Mục Vương, nằm ở tỉnh Tứ Xuyên, và sau đó còn được tìm thấy trong một thạch thất nằm trên núi Thương Sơn. Đó là dụng cụ cho các vị đạo tiên nuôi dưỡng tính nết và vui chơi với Đạo.”

Cờ vây có hình thức rất giản dị. Chỉ có 2 loại quân cờ đen và trắng, và luật chơi cũng rất đơn giản. Tuy nhiên sự huyền diệu của nó lại vượt xa hơn cả bất cứ loại cờ nào. Chỉ có 361 điểm cho quân cờ, nhưng sự biến ảo là hầu như vô tận. Trầm Quát viết trong sách “Mộng Khê Bút Đàm”, khi bàn đến số lượng biến ảo của cờ vây đã nói rằng “nó lên tới con số 3 luỹ thừa 361 lần”.

Cờ vây rất là bác đại tinh thâm, huyền diệu vô cùng, nếu chỉ dùng trí tuệ con người thì không thể nào hiểu thấu đáo được. Là một phần văn hóa do chư Thần lưu lại cho con người, từ thiên cổ đến nay, cờ vây đã được biết bao bậc đế vương, quan tướng, văn nhân nho sĩ cũng như thường dân thưởng thức. Nó cũng mang lại biết bao giai thoại truyền kỳ, văn chương thi phú đẹp đẽ, ngay cả sách viết về binh thư toán pháp và phương lược trị quốc. Cờ vây là một đóa hoa đẹp đẽ trong lịch sử của nền văn minh Trung Hoa.

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Không quan tâm đến điều hơn lẽ thiệt, danh lợi và quan tước

Trong sách “U song tiểu ký” có ghi lại một câu đối như thế này: “Sủng nhục bất kinh, khán đình tiền hoa khai hoa lạc; khứ lưu vô ý, vọng thiên không vân quyển vân thư”. (Tạm dịch: Không quan tâm điều hơn lẽ thiệt, ngắm trước sân hoa nở hoa tàn; tùy ý ra đi hay ở lại, nhìn khung trời mây tụ mây tan). Câu nói này có ý: người ta làm việc mà có thể xem vinh nhục cũng bình thường như đóa hoa kia sớm nở tối tàn, thì mới có thể giữ cho nội tâm bình lặng không kinh động; xem chức vị đến rồi đi biến đổi thất thường tựa như mây tụ mây tan, thì mới có thể giữ được tâm vô vi thanh tịnh. Một đôi câu đối chỉ có vài chữ, nhưng lại khắc sâu được nhân sinh quan và thái độ đối với vạn sự của tác giả: được thì không hoan hỉ, mất cũng không ưu phiền, vinh sủng hay chịu nhục cũng không kinh động, ra đi hay ở lại cũng không bận tâm. Như vậy mới có thể giữ tâm cảnh ôn hòa, thanh bạch tự nhiên.

Vị quan Tể tướng đồng thời là một nhà thơ tên Hướng Mẫn Trung thời vua Tống Chân Tông chính là một người quân tử như thế. Ông không bị ảnh hưởng bởi những thứ phú quý và danh lợi tầm thường. Vào thời Hoàng đế Chân Tông, Hướng Mẫn Trung được bổ nhiệm làm quan Hữu phó xạ. Ngày Hoàng đế hạ chiếu thư truyền đạt mệnh lệnh bổ nhiệm chức quan cho Hướng Mẫn Trung, Lý Tông Ngạc đang là Học sỹ Viện hàn lâm. Hoàng thượng nói với ông ta: “Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, chưa từng bổ nhiệm quan Phó xạ. Ngày hôm nay bổ nhiệm Mẫn Trung nhậm chức quan này, đây không phải là một sự bổ nhiệm tầm thường. Mẫn Trung chắc là rất vui mừng”. Lý Tông Ngạc trả lời: “Thần từ sáng sớm hôm nay đã vào trong cung rồi, cũng không biết đã tuyên bố chiếu thư, không hiểu giờ này Mẫn Trung như thế nào?”. Hoàng đế nói: “Trong nhà Mẫn Trung hôm nay khách đến chúc mừng nhất định là rất đông, khanh qua nhà ông ta xem thử, rồi ngày mai trở lại báo cáo cho Trẫm. Không nên nói ấy là chủ ý của Trẫm”. Tông Ngạc chờ Thừa tướng về nhà rồi mới tới bái kiến. Thừa tướng vừa mới từ biệt khách khứa xong, trước cửa phủ Thừa tướng yên lặng không có một người. Tông Ngạc và Hướng Mẫn Trung vốn là bạn thân, nên Tông Ngạc đi thẳng vào trong phủ gặp Thừa tướng. Sau đó chúc mừng nói: “Hôm nay nghe nói có chiếu thư bổ nhiệm Ngài, các quan sỹ đại phu đều rất vui, cả nước đón mừng”. Hướng Mẫn Trung chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Tông Ngạc lại nói: “Từ khi đương kim Hoàng thượng lên ngôi tới nay chưa từng bổ nhiệm chức Phó xạ, đây không phải là sự bổ nhiệm tầm thường. Nếu không có đức cao vọng trọng, Hoàng thượng làm sao tin tưởng như vậy được?”. Hướng Mẫn Trung vẫn chỉ trả lời lấy lệ, rốt cuộc thực ra là chẳng nói gì. Tông Ngạc rời khỏi gian nhà chính, phái người đến phòng bếp, hỏi hôm nay trong phủ Thừa tướng có yến tiệc chiêu đãi khách khứa bà con gì hay không. Người trong bếp cũng nói trong phủ Thừa tướng hôm nay yên tĩnh không người.

Ngày hôm sau Tông Ngạc lên triều, Hoàng thượng hỏi: “Hôm qua có tới gặp Mẫn Trung không?”.

Tông Ngạc trả lời: “Bẩm đã gặp ông ấy rồi”.

Hoàng thượng lại hỏi “Tâm ý của Mẫn Trung ra sao?”.

Tông Ngạc đem những gì mình thấy báo cáo cả lại.

Vua cười nói: “Hướng Mẫn Trung thật sự là không quan tâm đến chuyện được mất, trong tâm không nghĩ gì đến quan tước”.

Từ cổ chí kim, phần lớn những chuyện thăng quan phát tài đều được người ta xem là chuyện đáng mừng, còn Hướng Mẫn Trung đối với việc thăng chức thì hoàn toàn bình thản. Có lẽ do ông là người vị tha, trong tâm không có quá nhiều ham muốn, nên mới có thể không bị danh lợi ràng buộc.

Bây giờ nhiều người cảm thấy sống rất mệt mỏi, không chịu nổi sức ép của cuộc sống. Rất nhiều người cũng suy nghĩ, tại sao xã hội không ngừng phát triển, mà gánh nặng của người ta lại càng nặng thêm, tinh thần ngày càng rỗng tuếch, tư tưởng thì nông nổi quá chừng. Thực ra, xã hội không ngừng phát triển, có vẻ là văn mình hơn xưa. Song chính sự “phát triển” của xã hội đã tạo thành sự tách biệt của con người với tự nhiên, con người đã hy sinh tự nhiên làm cái giá để trả cho cái sự “phát triển” ấy. Kết quả của việc này là người ta đã rơi vào vũng lầy thế tục không cách nào tự thoát ra được. Người ta hướng ngoại chạy theo thói đời tôn sùng vật chất, dần dần không còn biết phân biệt tốt xấu đúng sai nữa. Sự hấp dẫn của tiền bạc, những chiêu thuật tranh giành quyền lực, sự chìm nổi chốn quan trường khiến người ta hao tâm kiệt sức. Những chuyện tranh chấp thị phi, thành bại, được mất khiến người ta vui, buồn, lo, sợ. Một khi điều thèm muốn khó có thể thực hiện hoặc suy tính khó đem lại thành công, hy vọng tan vỡ thành ảo ảnh thì họ cảm thấy lạc lối, u uất, có người thậm chí vì vậy mà trả giá bằng cả mạng sống.

Phạm Trọng Yêm đời Bắc Tống trong tác phẩm “Nhạc Dương lâu ký” cũng trình bày đạo lý làm quan, làm người: “Không cảm thấy hài lòng bởi lợi ích vật chất, cũng không cảm thấy buồn phiền cho số phận không may. Địa vị cao ở nơi triều đình thì lo cho dân; đi xa khắp 4 phương trời thì lo cho vua. Tiến cũng lo mà thoái cũng lo, vậy thì lúc nào được vui đây? Điều đó chính là: “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” vậy!”. Làm một sinh mệnh có tấm lòng bao la chứa cả thiên hạ, lấy trọng trách chăm lo cho thiên hạ đặt lên vai mình, người ấy quyết sẽ không chỉ vì lo cho quan tước và danh lợi bản thân mà suy tính thiệt hơn. Chính như hiện nay các đệ tử Pháp Luân Công đang bị ĐCSTQ đàn áp và bức hại tàn bạo. Họ là những người đi theo tiêu chuẩn “Chân Thiện Nhẫn” để làm người tốt, nhưng lại bị ĐCSTQ cưỡng chế vào lao giáo, bắt giam, thậm chí bị mổ cướp nội tạng trong khi họ đang còn sống. Họ mặc dù biết rõ những điều được mất của ích lợi cá nhân, nhưng vẫn thản nhiên đối diện với sinh tử, một lòng chỉ vì để cho con người thế gian vốn đang bị lừa dối và bịt mắt có thể hiểu được chân tướng sự thật, có được tương lai tốt đẹp.

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Một câu chuyện giác ngộ về thành và bại

Xiao Sheng là một nhạc sĩ đánh trống trong ban nhạc nhà trường. Mỗi buổi sáng chào cờ, tất cả thầy cô giáo và học sinh luôn luôn lắng nghe những nốt nhạc của em. Một ngày, em đánh sai mấy nốt và cảm thấy rất xấu hổ. Sau đó, em nghĩ là em sẽ không đánh trống trong ban nhạc nữa. Tôi có kể cho em câu chuyện sau đây:

Ngày xưa có một người cha rất thất vọng về con trai của mình vì em đó không có chút tính đàn ông nào cả, mặc dầu em đã 16 tuổi. Người cha đến gặp một sư phụ dạy Thiền và yêu cầu vị sư phụ giúp con trai của ông ta trở thành một người đàn ông thật sự.

Ông sư phụ nói “Tôi có thể giúp ông; tuy nhiên, ông cần phải để con ông lại đây trong 3 tháng. Trong 3 tháng này, ông không được gặp con ông. Tôi bảo đảm ông sẽ vừa lòng trong 3 tháng”.

Như đã hứa, người cha không đến thăm cho đến hết 3 tháng. Ông sư phụ dựng nên một cuộc thi đấu võ để cho người cha xem kết qủa.

Khi cuộc thi đấu bắt đầu, người cha thấy rằng đối thủ kia là một huấn luyện viên võ thuật.

Người huấn luyện viên này chuẩn bị chu đáo cho cuộc đấu và phải thắng trước khi ông ta tấn công. Về mặt người con trai kia, cậu ta té xuống sàn khi bị tấn công mà không chống cự được gì cả. Tuy nhiên, cậu con trai không bao giờ đầu hàng và đứng lên ngay sau khi bị té ngã. Cuộc đấu cứ như vậy trong hơn 20 lần. Người cha rất mắc cỡ và cảm thấy đau đớn nhưng không nói lên lời nào cả.

Cậu con trai bị thua đau đớn trong trận đấu. Ông sư phụ hỏi người cha “Ông có thấy con trai của ông là người đàn ông thật sự chưa?”

“Tôi cảm thấy rất xấu hổ về nó! Sau ba tháng tập dượt, có kết quả gì đâu?Nó yếu và té xuống sàn khi bị tấn công. Tôi không nghĩ có là đàn ông thật gì cả”. Người cha rất thất vọng.

Ông sư phụ nói: “Tôi rất tiếc là ông chỉ chú trọng về hình thức của sự thất bại và thành công. Ông không thấy rằng con trai ông đủ can đảm và tinh thần cao mới đứng lên được mỗi lần bị té? Thành công là ở chỗ đứng lên lại nhiều hơn là bị té, mà đó chính là một người đàn ông thật sự phải có”.

Người cha được giác ngộ và cám ơn ông sư phụ rối rít, và rồi ông ta đưa con về nhà.

Sau khi nghe xong câu chuyện, Xiao Sheng suy nghĩ và nói với tôi rằng em sẽ cố tâm và tập luyện tất cả các nốt bị sai để mọi người được thưởng thức.

Giác ngộ từ câu chuyện:

Chúng ta không chỉ chú trọng đến kết quả trước mắt khi chúng ta làm điều gì. Những kinh nghiệm học được và những nổ lực cho công việc quan trọng nhất. Nếu cuộc đời con người luôn luôn song suốt, bằng phẳng, thì con người không thể thưởng thức được sự vinh quang của thành công cuối cùng sau nhiều lần bị thất bại mà vẫn không bỏ cuộc. Ðức độ quan trọng nhất là học được kinh nghiệm và kiên trì, can đảm đứng lên bước tới con đường mới để đạt đến thành công cuối cùng.

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013

Eisenhower tự cứu mình bằng cách giúp người khác

Tướng Dwight Eisenhower phục vụ với tư cách Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Đồng Minh ở Châu Âu trong chiến tranh Thế giới thứ II. Một hôm, ngài Eisenhower, cùng với đoàn tùy tùng, đang vội lái xe về tổng hành dinh quân đội ở Pháp để tham dự một cuộc họp khẩn cấp. Trời mùa đông rất lạnh, mưa tuyết rơi đầy bầu trời, và cái lạnh thấu xương quét qua cả lục địa Châu Âu.

Đang đi trên đường thì đột nhiên, ngài Eisenhower để ý thấy một cặp vợ chồng già người Pháp đang ngồi bên lề đường, run lên bần bật trong giá rét. Eisenhower lập tức ra lệnh dừng lại và muốn phái một thông dịch viên tiếng Pháp hỏi thăm tình hình. Một viên tham mưu nhắc nhở Eisenhower: “Chúng ta phải nhanh lên, không thì trễ họp mất. Hãy để lại vấn đề này cho lực lượng cảnh sát địa phương”. Thực ra, ngay cả viên tham mưu cũng biết rằng đó chỉ là cái cớ để khiến Eisenhower bỏ qua cặp vợ chồng già đang run rẩy ở đó mà thôi.

Ngài Eisenhower, dẫu vậy vẫn khăng khăng, nói: “Nếu chúng ta đợi cảnh sát địa phương tới, sẽ là quá muộn. Cặp vợ chồng già này sẽ chết cóng trước khi họ đến”. Sau khi trò chuyện với cặp vợ chồng già, ngài Eisenhower biết được là họ đang trên đường tới Paris gặp con trai. Xe của họ đã chết máy ngang đường, và bây giờ, họ không có gì để chống chọi lại cái lạnh run người này.

Ngài Eisenhower bảo cặp vợ chồng già mau lên xe của mình. Vị Tư lệnh Tối cao quân Đồng Minh không hề nghĩ nhiều đến danh phận của mình. Ông không hề tỏ thái độ gì trước cặp vợ chồng khốn khó, mà ông chỉ theo bản tính lương thiện tự nhiên là giúp đỡ người hoạn nạn. Ngài Eisenhower liền đổi hành trình tới Paris trước để cặp vợ chồng gặp con trai, trước khi lái xe tới tổng hành dinh.

Kết quả là, chính sự chuyển hướng ngoài kế hoạch của ngài Eisenhower đã cứu sống mạng của ông! Quân Quốc Xã đã có tin tình báo rằng ngài Eisenhower sẽ lên đường tới buổi họp, và họ đã biết chính xác hành trình của ngài Eisenhower. Quân Quốc Xã đã bố trí sẵn các tay súng bắn tỉa rình tại các ngã tư, đợi ngài Eisenhower tới để ám sát ông. Hitler đã quyết tâm tiêu diệt ngài Eisenhower vào ngày hôm ấy. Nhưng hóa ra, hành động tử tế của ngài Eisenhower đã phá tan âm mưu sám sát ông của Đức Quốc Xã. Hitler chán nản và đổ lỗi cho các đặc vụ tình báo về sự thất bại. Ông ta không bao giờ nghĩ ra rằng chính sự tốt bụng của ngài Eisenhower đã giúp ông đổi hành trình và tránh được cuộc đụng độ chết người ấy. Đó là một biểu hiện rõ ràng rằng Trời sẽ ban phúc cho những ai đức hạnh và thiện lương.

Một vài nhà sử học đã bình luận rằng ngài Eisenhower đã hóa giải một nỗ lực ám sát đơn giản chỉ nhờ trái tim lương thiện. Nếu ngài Eisenhower bị sát hại vào thời điểm đó, lịch sử cả cuộc chiến tranh thế giới II có thể đã thay đổi hoàn toàn.

Làm điều tốt là khác với đánh một cái dấu lên tờ ngân phiếu. Trong ngân hàng đức, vốn đức của một người sẽ tăng lên chừng nào người ấy còn làm việc tốt. Do đó, người ta nói thiện lương và đức hạnh của một người giống như kho trữ vàng có thể dùng mãi mà không cạn. Khi bạn đang giúp người khác, bạn thực sự đang giúp chính mình. Cũng như câu nói của người Trung Quốc xưa: “Phúc tại tích thiện, họa tại tích ác”. Câu chuyện trên đã đưa ra minh chứng cho câu nói cổ của người Trung Quốc.

Một niệm thiện, không phải là đến một cách vô cớ. Người ta phải không ngừng tu dưỡng bản thân, và liên tục tích tồn thiện niệm. Chỉ bằng cách ấy, người ta mới có thể đưa ra những quyết định thiện từ chỉ trong chốc lát. Vậy thì, tại sao chúng ta không bắt đầu từ bây giờ? Hãy bắt đầu tất cả từ tâm chúng ta, và gieo trồng thiện niệm trong tâm chúng ta. Khi thời gian trôi qua, chúng ta có thể bảo đảm rằng chúng ta sẽ tích rất nhiều đức và hưởng phúc từ Thiên Đường.

Tuy nhiên, ngày nay có những người luôn coi mình là cao siêu hơn những người khác. Họ nghĩ rằng thời gian của họ là quan trọng hơn nhiều so với những người khác. Ngay cả khi cần một sự giúp đỡ khẩn cấp, những người này vẫn không thay đổi, hoặc cố gắng hết sức tránh giúp đỡ hay chịu trách nhiệm. Cuối cùng, những người này có thể đã tích rất nhiều của cải; tuy nhiên, số dư tài khoản trong ngân hàng đạo đức của họ thì lại nhỏ đến mức đáng sợ. Làm sao người ta có thể kỳ vọng người như vậy được hưởng phúc? Làm sao người ta có thể hy vọng người như thế tránh khỏi tai họa? Đặc biệt chính quyền Trung Quốc hiện nay vẫn đang tiến hành cuộc đàn áp tàn bạo đối với những người dân Trung Quốc vô tội, những người tập Pháp Luân Công và tin vào “Chân-Thiện-Nhẫn”. Nếu những người từng tham gia bức hại không ngừng ngay bây giờ, họ sẽ chắc chắn phải hối tiếc một khi tai họa ập xuống đầu họ. Khi một người làm hại người khác, người ấy đang làm hại chính mình. Khi một người giúp đỡ người khác, người ấy đang giúp đỡ chính mình. Với những người vẫn đang bức hại Pháp Luân Công, tôi muốn nói to với họ rằng, “Xin dừng ngay việc bức hại lại, các vị sẽ tích đức nhiều hơn cho chính mình!”

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2013

Triết lý của Đạo đằng sau 'Phong Thần diễn nghĩa'

Danh tác cổ điển “Phong Thần diễn nghĩa” là tác phẩm mà mọi người yêu thích, kỳ thực điều mà nó hàm chứa cũng là thực chất là tác giả muốn nói cho con người biết.

Câu chuyện này xoay quanh chủ đề Khương Tử Nha trợ Chu diệt Trụ, biểu hiện trên bề mặt thì thấy tình tiết thiên biến vạn hóa, vậy thông qua đó tác giả muốn biểu đạt dụng ý gì?

Thứ nhất, ý nghĩa của tín Sư tín Pháp: Thiên tiểu thuyết tường thuật lại một câu chuyện: Sư thúc của Khương Tử Nha cảnh cáo môn đồ của mình rằng không được tự mình xuống núi, nếu không sẽ gặp họa kề thân. Các đệ tử gật đầu đáp lại. Nhưng sau này, các đệ tử của Thông Thiên giáo chủ đều tự ý xuống núi, kết quả toàn bộ đều gặp họa khó tránh, tự chuốc lấy họa sát thân, đáng tiếc là họ đều mất đi nghìn năm tu Đạo. Còn Thổ Hành Tôn và Hoàng Thiên Hóa, chưa được phép của sư phụ, đã tự ý xuống núi, kết quả thân gặp tai ương. Đối với một người tu luyện mà nói, nghe lời sư phụ, tín Sư tín Pháp là quan trọng nhất, không nghe lời sư phụ sẽ có kết cục thế nào đây?

Thứ hai, tính trọng yếu của kính Sư kính Pháp: Nếu nói rằng tín Sư tín Pháp là điều rất quan trọng đối với người tu luyện, vậy thì kính Sư kính Pháp lại càng thể hiện ý nghĩa phi phàm. Trong tiểu thuyết có một tình tiết: Trụ Vương vô đạo, muốn giết con ruột của mình là Ân Hồng và Ân Giao, chính Khương Tử Nha đã vận dụng thần thông cứu hai người thoát nạn và dẫn họ tới chỗ Quảng Thành Tử và Xích Tinh Tử tu hành đắc Đạo. Nhiều năm sau, Quảng Thành Tử và Xích Tinh Tử lệnh cho Ân Hồng và Ân Giao xuống núi phù trợ Khương Tử Nha hoàn thành đại kế hưng Chu diệt Trụ (chấn hưng nhà Chu, tiêu diệt Trụ Vương). Nhưng hai người này bội tín bội nghĩa, đi theo Trụ Vương. Khương Tử Nha vốn là ân nhân cứu mạng cũng là sư thúc của hai kẻ đó, nhưng chúng không biết đền ơn đáp nghĩa, mà còn muốn sát hại Khương Tử Nha, sau này chúng cũng dám xuống tay tàn nhẫn với sư phụ của mình, phạm phải tội ‘khi sư diệt tổ’, cuối cùng bị Trời trừng phạt nghiêm khắc. Nhất nhật vi sư, chung thân vi phụ (một ngày là thầy, cả đời là cha) là điều mà mỗi một người tu hành cần khắc cốt ghi tâm.

Thứ ba là phong thái từ bi dung nhẫn, vô tư vô ngã. Sau khi Khương Tử Nha hoàn thành đại nghiệp hưng Chu diệt Trụ, ông đã tới đài phong Thần để phong Thần. Trong đó, có người được Khương Tử Nha phong làm Thần tiên vốn là sư huynh sư đệ muốn đưa ông vào chỗ chết, là người vợ giữa đường bỏ ông mà đi, còn có cả người cháu sát thủ vô ơn tàn nhẫn. Khương Tử Nha ôm giữ lòng từ bi, chỉ nhìn mặt tốt đẹp của họ, thừa nhận bản tính của họ là thiện, không để bụng chuyện cũ. Cuối cùng khi phong Thần xong, lại không còn Thần vị dành cho mình, ông chỉ nghĩ đến người khác, mà không nghĩ đến bản thân mình. Người tu luyện đều như vậy. Đương nhiên ở đây cũng nói đến người tu luyện không ghi nhớ ân oán cá nhân, còn những kẻ vi phạm Thiên lý, ắt sẽ bị Thiên lý trừng phạt.

Thứ tư là lựa chọn vị trí. “Phong Thần diễn nghĩa” kỳ thực đã miêu tả một cuộc chiến giữa chính nghĩa và tà ác. Chúng Thần đều tự mình lựa chọn. Lựa chọn con đường của Trụ Vương hồ đồ xuẩn ngốc, chính là lựa chọn tà ác, vậy thì chỉ có một con đường chết. Lựa chọn con đường của Khương Tử Nha, chính là lựa chọn chính nghĩa, chính là ánh sáng quang minh. Ngày nay, Vua của các vị vua (vạn vương chi Vương) đang dẫn dắt các đệ tử của mình tham gia một trận đại chiến giữa thiện và ác cùng với thế lực tà ác trong vũ trụ, chúng sinh trong vũ trụ đều đang lựa chọn, lựa chọn chính nghĩa là đường sinh, lựa chọn tà ác cả nghìn kiếp cũng không thể phục sinh. Biểu hiện tại nơi này chính là người người đều muốn làm tam thoái, làm tam thoái là cửa sinh, không làm tam thoái là cửa tử.

Hứa Trọng Lâm, tác giả cuốn “Phong Thần diễn nghĩa” chính là muốn nói cho người đời biết rằng, nhất định phải lựa chọn sáng suốt vị trí cho mình, còn về việc lựa chọn điều gì, đều do con người tự mình định đoạt.