Trang chu

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Chuyện cổ tích: Bảo Liên Đăng




Câu chuyện về cậu bé dũng cảm giải cứu mẹ của mình

Có một câu chuyện cổ tích về một vị nữ thần tên là Tam Thánh Mẫu, người đã phải lòng một chàng thư sinh Lưu Ngạn Xương. Trái ý của anh trai mình là Nhị Lang Thần, Tam Thánh Mẫu đã chạy trốn khỏi thiên đình với bảo liên đăng và xuống hạ giới.

Họ kết thành vợ chồng và chung sống rất hạnh phúc. Hai người có một đứa con trai tên là Trầm Hương. Bảy năm sau, Nhị Lang Thần tìm thấy họ nhờ ánh hào quang lóe lên từ bảo liên đăng. Để thi hành thiên quy, Nhị Lang Thần đã bắt cóc Trầm Hương và buộc Tam Thánh Mẫu hoàn trả chiếc đèn. Cô giao lại chiếc đèn và bị giam cầm dưới một ngọn núi lớn, núi Hoa Sơn.

Trong khi ở trên thiên đình, Trầm Hương được biết về lai lịch của mình và việc mẹ bị giam dưới một ngọn núi. Cậu bé lên kế hoạch lấy lại bảo liên đăng. Với sự giúp đỡ của một số vị thần cậu đã thành công và thoát khỏi cung điện để tìm mẹ.

Đó là một cuộc hành trình dài và gian khổ. Trong cuộc hành trình, Trầm Hương đã gặp nhiều khó nạn, như một dải sa mạc bất tận, đá lăn, tuyết lở, động đất và một trận bão cát khủng khiếp. Không khó nạn nào làm suy chuyển quyết tâm cứu mẹ của cậu bé. Qua những khó khăn này, cậu bé đã trưởng thành thành một chàng trai dũng cảm.

Sự kiên định của Trầm Hương đã làm cảm động Tề Thiên Đại Thánh. Tề Thiên Đại Thánh đã chỉ cho Hương Trầm đường đến Hoa Sơn và tặng cho chàng một con khỉ nhỏ và một con tiểu bạch long để giúp chàng. Họ ngay lập tức chạy đến ngọn núi lửa. Với sự giúp đỡ của người dân địa phương, họ đã hạ được bức tượng bằng đá của Nhị Lang Thần xuống và dùng nó để làm một chiếc rìu phép thuật. Khi Trầm Hương chiến đấu với Nhị Lang Thần cùng chiếc rìu này, chàng trở nên rất mạnh mẽ. Ngay khi Nhị Lang Thần chuẩn bị khống chế chàng và đoạt lấy bảo liên đăng thì ánh hào quang từ chiếc đèn đột nhiên xuyên thấu thân thể của Trầm Hương và hợp nhất với chàng. Cuối cùng thì Trầm Hương cũng đánh bại được Nhị Lang Thần.

Trầm Hương xẻ đôi ngọn núi, cứu được Tam Thánh Mẫu và hai mẹ con họ cùng đoàn tụ.



Nhị Lang Thần, được mô tả theo truyền thuyết với con mắt thứ ba
và con chó trung thành ở bên

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

Cách dạy con của người xưa: Trọng Đức và tu thân

Người xưa rất coi trọng nền nếp gia phong, chú trọng bồi dưỡng các đức tốt cho con cháu. Họ lấy “Nhân nghĩa lễ trí tín” và các tư tưởng hướng thiện, hướng đạo của văn hóa truyền thống để hướng dẫn chúng. “Trọng Đức tu thân” trở thành nội dung chính của lời gia huấn của các dòng họ. Các Thánh hiền thời xưa rất quan tâm thương yêu con cháu nhưng cũng yêu cầu nghiêm khắc, giúp chúng luôn luôn theo thiện, đi nghiêm chính trên bước đường đời, không có gì oán giận và hối tiếc. Trí tuệ trong những lời dạy của người xưa đã cho hậu thế rất nhiều kinh nghiệm quý báu.


Khổng Tử dạy con học “Thi” và “Lễ”

Khổng Tử là nhà tư tưởng và giáo dục thời Xuân Thu, tương truyền có 3000 học trò. Trong sách “Luận ngữ – Quý thị” ghi lại câu chuyện:
Một hôm, học trò của Khổng tử, tên Trần Kháng, hỏi con trai Khổng Lý của ông rằng: “Anh ở cùng thầy có nghe được lời dạy bảo nào mà không giống với người khác chăng?”

Khổng Lý nói: “Không có. Có lần cha tôi một mình đứng trong sân nhà, tôi bước nhanh qua, cha tôi hỏi: “Học Thi chưa”. Tôi trả lời: “Dạ chưa”. Cha tôi nói: “Không học Thi, không thể ăn nói được”. Thế là tôi liền đi học Thi. Lại có lần, gặp cha, tôi bước nhanh qua, cha hỏi: “Có học Lễ chưa?”. Tôi trả lời: “Dạ chưa”. Cha tôi nói: “Không học Lễ, không thể đứng vững được”. Thế là tôi lập tức đi học Lễ. Tôi chỉ nghe được 2 việc ấy thôi”.

Trần Kháng vui vẻ nói: “Tôi hỏi một câu hỏi, lại hiểu ra được 3 điều. Biết được đạo lý học Thi và học Lễ, còn biết được là người quân tử đối xử với con trai mình không khác gì những trẻ em khác”.

Thực sự, Thi và Lễ đều là nội dung trọng yếu mà Khổng Tử giáo dục học trò. Khổng Tử cho rằng dùng hình thức văn nghệ để giáo dục thường có hiệu quả cao hơn lối dạy bảo thông thường. Tương truyền “Kinh Thi” có 305 bài đều là ông tự mình biên soạn, nội dung nhiều, quan hệ với đạo lý tu thân, hiểu Mệnh, đi theo Đạo nghĩa. Khổng Tử cho rằng tu dưỡng đạo đức con người là bắt đầu từ đây, có thể nâng cao năng lực quan sát của con người, ngoài ra thông qua việc đọc Kinh Thi sẽ học được rất nhiều tri thức lịch sử, tự nhiên và xã hội. Khổng Tử nói: “Hưng thịnh nhờ Thi, đứng vững nhờ Lễ, thành tựu nhờ Nhạc”. Ông cho rằng Lễ chính là quy phạm hành vi lễ nghi và đạo đức của xã hội, bắt đầu từ học Lễ, giáo dục học trò xây dựng đức hạnh cho bản thân, từ thực tiễn dần dần bồi dưỡng ra những học trò có ý thức đạo đức tự giác, trở thành những trụ cột của xã hội sau này bằng tài đức tế thế an dân và thông hiểu Đạo Trời.

Khổng Tử dạy con học Thi học Lễ, so với các học trò khác thì đều yêu cầu như nhau, không vì Khổng Lý là con mình mà nới lỏng yêu cầu. Từ đó thấy được Khổng Tử đối xử rất bình đẳng với học trò, đồng thời gửi gắm nhiều hy vọng ở con trai. Người đời sau gọi phương pháp dạy con của Khổng Tử là “Thi Lễ truyện gia”.

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

Hiểu biết của tôi về Harry Potter và “bức tường”

Với tập phim “Harry Potter và Bảo bối Tử thần”, loạt truyện Harry Potter đồng hành với chúng ta trong những năm qua sẽ được khép lại. Điều lôi cuốn chúng ta không chỉ là những cuộc phiêu lưu của cậu bé Harry Potter và bè bạn của mình, mà còn bởi thế giới phép thuật huyền diệu mà loạt phim này lấy bối cảnh.

Sâu thẳm trong tâm hồn chúng ta, nhiều người hy vọng thế giới phép thuật này thật sự tồn tại, và thậm chí có thể còn ước mong được đích thân đặt chân đến nơi đó. Mặc dù có sự tồn tại đồng thời của thiện và ác, quang minh và hắc ám, ít nhất thì nó cũng đã mở ra cho chúng ta một cánh cửa để thoát khỏi cái xã hội nặng về vật chất và có vẻ tầm thường này.

Bộ phim này đã cho chúng ta thấy rằng thật sự có một bức tường đang ngăn cách giữa thế giới thật và thế giới phép thuật. Bạn có còn nhớ trong chương đầu tiên, Harry đã đón chuyến xe lửa đến trường Hogwarts như thế nào không? Ở đó không có sân ga nào cả, chỉ là một bức tường. Khi người ta không bị cản trở bởi cặp mắt thịt này, và khi người ta có thể nhắm mắt và thẳng bước tới bức tường ấy bằng lòng can đảm, thì người ấy sẽ phát hiện ra rằng bức tường hoàn toàn không hề tồn tại. Thay vào đó, nó chỉ là một sự tiếp xúc giữa thế giới này và thế giới phép thuật. Điều chúng ta đã và đang tìm kiếm từ rất lâu, thật ra đang ở đằng sau bức tường kia.

Trong tâm trí chúng ta cũng có một bức tường như thế làm gián cách cõi phàm này với thế giới siêu nhiên. Được dựng nên trong thế giới con người, bức tường này đã được củng cố bới những định kiến và quan niệm của chúng ta. Nó kìm hãm tư tưởng và cuộc sống của chúng ta trong một không gian nhỏ bé. Hơn nữa, một người, hay loài người nói chung, đang củng cố bức tường này và làm cho nó ngày một cao hơn—tức là, giam hãm chính bản thân mình trong một không gian ngày một nhỏ hẹp hơn. Người ta không dám tin những điều không được giảng trong sách giáo khoa hay các lý thuyết mà chưa được chính quyền xác nhận. Nói cách khác, rất ít người có đủ dũng cảm để suy nghĩ một cách độc lập và khám phá thế giới. Từ góc nhìn của Harry Potter và những người bạn của cậu, thì chúng ta đang sống một cuộc sống đáng thương bởi vì chúng ta không đủ bản lĩnh để bước xuyên qua bức tường.

Lằn ranh ngăn cách bên trong và bên ngoài bức tường thực ra chính là bởi tâm trí của chúng ta. Khi chúng ta có thể đột phá khỏi những quan niệm cố hữu và dám khám phá phía bên kia, về cơ bản thì—ít nhất là tại thời điểm đó—chúng ta đã ở phía bên kia của bức tường. Quá trình này dường như có vẻ đơn giản, không có gì khác thường trong không gian này. Tuy nhiên trong tư tưởng của chúng ta, riêng ý niệm ấy cũng đã có thể làm kinh thiên động địa. Phật gia giảng: “Phật tính nhất xuất, chấn động thập phương thế giới”. Chỉ vì một ý niệm từ một người thường trong thế giới này, mà các thiên giới bị chấn động. Từ đây chúng ta có thể thấy được sức mạnh của ý niệm này.

Rất nhiều người hâm mộ loạt truyện Harry Potter. Nhưng ít ai nghĩ xa hơn những gì được viết trong đó. Trên thực tế, nhiều cảnh tượng được miêu tả trong các tập phim đang diễn ra ngay lúc này, từ trận chiến của chân lý chống lại giả dối, thiện chống ác, cho đến chính nghĩa chống lại thế lực hắc ám. Trận chiến này cũng đang diễn ra ở cả thế giới này và trong các không gian khác. Và cũng giống như các tập truyện Harry Potter, trận chiến này sẽ sớm kết thúc. Nhiều người sẽ sớm nhận ra rằng họ cũng đến từ những thế giới xa xôi và các chúng sinh nơi đó đang trông chờ vào họ để được cứu độ. Những chúng sinh này có thể được cứu hay không—nói cách khác, từ đó về sau họ sẽ sống trong ánh hoàng kim hay trong bóng tối—là tùy thuộc vào những suy nghĩ của người đó trong thế giới này, trước sự lựa chọn giữa chân chính và tà ác.

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Một trái tim không tham lam là thần thánh nhất

Của cải của thế giới thì hữu hạn và lòng tham con người thì không có giới hạn. Mặc dù người ta biết an phận thủ thường là hạnh phúc nhất, nhưng ít người từ bỏ được lòng tham và sự dâm dục. Hầu hết mọi người đều biết rằng trừ bỏ lòng tham là trí huệ chân thực và cần thiết cho một sinh mệnh cao quý.

Ví dụ sau đây minh họa quan điểm đó. Ngày xưa có một vị thần đi dạo xuống cõi trần. Một lúc sau ông ta thấy một con người phàm đang đi dạo trên đường. Vị thần liền đi dạo cùng đường, cũng giống như một người bình thường. Một lúc sau, người đàn ông cảm thấy khát. Ông ta thấy ông kia đang mang một bình nước bên hông, vì thế ông ta hỏi, “Có còn nước trong bình của ông không?” vị thần đưa bình nước cho ông ta và nói, “cả bình còn đầy, ông có thể uống bao nhiêu tùy ý”. Người đàn ông uống hết bình nước và cảm thấy nó chỉ thỏa được một chút cơn khát và cũng làm xua tan sự mệt nhọc. Họ tiếp tục đi một lúc thì ông ta đột nhiên nói, “Tôi ước gì nó là rượu vang ở trong bình của ông”. Vị thần mỉm cười, đưa bình nước cho ông ta nói, “Có rượu trong đó. Cứ uống nếu ông muốn”. Ông ta không tin, nhưng vẫn uống thử. Và rất ngạc nhiên, những gì ông ta uống là rượu vang, rất thơm.



Ông ta ngạc nhiên và nghĩ người bạn đồng hành của mình phải là một vị thần, bởi vì chỉ có thần mới có thể làm thế. Ông ta nghĩ đó là một cơ hội tốt để đòi hỏi thêm. Nên ông ta nói, “ bây giờ tôi ước gì nó là thuốc tiên trong cái bình của ông”. Vị thần cười và mở nắp bình. Người đàn ông nghĩ vị thần chắc lại cho mình thuốc tiên, nên ông ta mở miệng ra và chờ đợi. Nhưng chẳng có gì trong bình, và vị thần lắc cái bình một lần nữa và biến mất.

Nhà văn Nga Ivan Andreevich Krylov viết trong một chuyện ngụ ngôn, “người tham lam muốn mọi thứ, nhưng cuối cùng họ sẽ mất mọi thứ”. Một người tham lam không biết cách nào để điều khiển tham muốn của mình. Anh ta bị mù sau khi anh ta ham muốn, nhưng cuối cùng kết thúc của anh ta là tay không. Một người thông minh thực sự, trái lại, không lãng phí thời gian của họ để truy cầu những lợi ích của nhân thế. Nhưng cuối cùng, những gì mà anh ta có thì người khác có muốn cũng không được.

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Làm tốt một việc mỗi ngày

Những người với trí huệ cao cả trong thế gian không những rất bận rộn làm việc, mà họ còn thời gian rảnh rỗi cho tâm linh và thường hồi tưởng lại những lỗi lầm để thanh lọc tâm trí của họ. Những nhà tu luyện với tầng cấp cao trong thời cổ Trung quốc cố gắng tập tâm trí thanh tỉnh và không có tâm ý nào, vì tham lam quá hạn sẽ làm người ta rất bận rộn với các công việc thế gian và bị lầm lộn bởi những tham muốn vật chất của thế gian, điều đó sẽ làm nhân tính bị thoái hoá mà không biết. Chỉ khi nào tập trung được tâm trí và tu luyện trong định tĩnh thì mới đạt được tâm trí tĩnh lặng và thân thể được thanh lọc. Tuy nhiên, những người thời nay rất bận rộn trong việc kiếm tìm danh lợi. Mỗi ngày làm việc của họ là đều bó chặt với lịch trình và họ bị quấy nhiễu vì bị điện thoại liên tục thậm chí ngay cả trong bữa ăn của họ hay khi đi tắm. Họ thường bị dồn dập và không có thời gian để thở. Kiểu sống này không tài nào làm việc đúng hoàn toàn; hoặc không cho người ta nghĩ đến vấn đề tâm linh nữa. Trước đây, tôi biết được một hoạ sĩ, ông ta tổ chức triễn lãm tranh ảnh rất nhiều lần và tham gia nhiều đợt triễn lãm khác. Không cần biết có bao nhiêu người đến xem, nhiều hay ít, hoặc có nhận được phần thưởng hay không, ông ta luôn luôn nở một nụ cười trên môi. Một số người hỏi: “Tại sao ông lại cảm thấy vui vẻ được vậy?”

Ông ta hỏi lại “Tại sao tôi không cảm thấy vui vẻ?”

Mọi người chung quanh ông đều muốn ông tiết lộ bí mật mà làm ông vui vẻ, vì thế ông ta kể lại kinh nghiệm của ông ta khi còn bé. Khi ông ta còn bé, ông ta có nhiều thích thú đến đủ việc và cũng rất chịu khó để tiến lên. Từ hội hoạ, chơi âm nhạc, bơi lội, chơi bóng rổ, ông ta học từng thứ và ông ta cũng rất muốn giỏi nhất trong mọi lãnh vực. Điều này dĩ nhiên là không được. Khi ông ta không thể trở thành giỏi nhất, ông ta cảm thấy như bị thất bại, và điều này gây ông bị thoái hoá rất nhiều. Trong một kỳ thi cá nguyệt, thậm chí ông được xếp vào hạng tệ nhất trong lớp.

Khi cha ông biết được điều này, ông ta không chỉ trích. Ngược lại, ông ta lấy một cái phễu và một nắm hột bắp và đặt lên trên bàn sau bữa ăn tối. Cha ông nói với ông “Cha sẽ làm thí nghiệm với con”, và hỏi ông đặt cái bàn tay của ông bên dưới cái phễu. Sau đó, cha ông ném vào cái phễu mười hạt bắp và trong tay ông có 10 hạt bắp. Cuối cùng cha ông bỏ hết cả nắm bắp vào trong phễu, thì các hạt bắp nằm kẹt với nhau và không có hạt nào rớt xuống cả. Cha ông nói rằng “Cái phễu này là giống như con. Nếu con làm tốt một việc trong một ngày, con sẽ được kết quả tốt và vui vẻ vì việc đó. Tuy nhiên, nếu con muốn dồn tất cả việc vào một ngày, con không thể làm xong một việc nào cả; thậm chí một việc cũng không xong” Hơn 20 năm trôi qua, ông ta vẫn nhớ rất rỏ lời dạy của cha “Làm tốt một việc trong mỗi ngày và sống vui vẻ, với một nụ cười”.

Từ điều này, chúng ta biết rằng nếu một người chọn làm một việc tốt và làm tốt mỗi ngày, thì người đó sẽ hạnh phúc và vui vẻ ngay cả khi gặp khổ nạn, nó không khó cho người đó đạt được tầng cấp cao về tâm linh và trí huệ và hạnh phúc. Có rất nhiều điều nhỏ nhặt trên thế gian, chỉ cần người đó đặt hết tâm trí vào nó, thì rất dễ dàng làm tốt một việc trong mỗi ngày. Ví dụ, như đối xử tốt với mọi người mỗi ngày, không dối trá hay nói tầm bậy, đó là lòng tốt. Đối xử với mọi người bằng vị tha và bao dung và nghĩ đến người khác trước trong mọi hoàn cảnh, điều này là tốt. Tha thứ lỗi lầm của người khác và nhẫn nhịn và thuyết phục với đạo đức, đây cũng là điều tốt. Giữ được tâm ý thiện và làm việc tốt hằng ngày, thì người đó sẽ trở thành một người tốt thật sự, và những người tốt thật sự tại thế gian sẽ được thần thánh phụ trợ giúp đỡ sẽ sống một cuộc sống hoàn toàn, khoẻ mạnh và tĩnh lặng.

Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

Làm ơn không cầu báo đáp, và tích được đại đức

Trong thế giới hữu hình hữu hoại này, chỉ những người Đại Trí có kiến thức uyên thâm mới có thể hiểu được nguyên lý “không cầu tự nhiên đắc”. Nếu một người nào đó có thể làm ơn mà không cầu đáp trả thì khi ấy người đó đã vượt xa cảnh giới tư tưởng của một người bình thường. Thỉnh thoảng khi tôi đọc những lời dạy của Chu Tử, “Làm điều tốt mà không cần suy tính, mang ơn mà không bao giờ quên”, trái tim tôi đã xúc động sâu sắc. Nếu bạn có thể làm ơn mà không cần đáp trả và, khi bạn nhận được ân huệ từ người khác, thì không bao giờ quên trong suốt cuộc đời và sống theo những nguyên tắc đó để trở thành một người tốt, bạn sẽ tích được đại Đức trong thế giới này. Một vài người, ngay cả khi họ biết đối xử tử tế với người khác là điều tốt, sau khi họ làm được một điều tốt họ bị thoái chí và thậm chí, họ nghi ngờ luôn cả nguyên lý “Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo”, đơn giản chỉ vì họ không được phúc báo ngay lập tức. Điều này xảy ra khi lòng nhân từ của một người nào đó không đủ trong sáng.

Khi vị tướng nổi tiếng thời nhà Hán là Hàn Tín còn trẻ, ông rất nghèo. Một ngày nọ, Hàn Tín không còn gì để ăn, ông không còn cách nào khác là ngồi ở bờ sông ngoại thành Hoài Dương và câu cá. Vào lúc đó, có nhiều phụ nữ đang giặt giũ bên bờ sông. Một người phụ nữ để ý thấy rằng Hàn Tín trông có vẻ đói và xanh xao, có vẻ như đã nhịn đói một thời gian rồi. Cô chủ động lòng đưa Hàn Tín thức ăn mà cô mang theo để ăn. Ông đã ăn uống như thế trong suốt 2 tuần, ngày lại ngày, bữa ăn này đến bữa ăn khác; ông đã ăn những thức ăn của một người có lòng từ tâm rất lớn. Lòng tốt của cô đã làm xúc động Hàn Tín và ông rất biết ơn cô. Ông cảm thấy đã mắc một món nợ khổng lồ với lòng tốt của cô, vì vậy ông đã nói với cô: “Trong tương lai ta sẽ tận tâm báo đáp lòng từ tâm của cô”. Không ngờ, người phụ nữ trả lời thật giản dị, “Một người đàn ông đích thực phải chăm lo cho cuộc sống của bản thân. Tôi đã cho ông thức ăn bởi tôi đã gặp ông và thương hại ông. Nếu tôi gặp những ai khác đang chịu khổ vì đói khát, tôi cũng sẽ làm như thế, vì vậy tôi không cần ông phải báo đáp gì cho tôi cả”.

Nhiều năm trôi qua, người phụ nữ không còn nhớ gì về số thức ăn mà cô đã cho đi. Cô từ lâu đã quên bẵng chuyện nhỏ nhặt như thế. Nhưng Hàn Tín đã không thể quên lòng nhân từ của cô. Sau khi tự đặt cho mình một cái tên giả ông trở lại quê xưa. Điều đầu tiên ông làm là đi tìm người phụ nữ đã gặp trong thời trai trẻ và báo ơn bà bằng một khoản tiền rất lớn.


Trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử nói rằng một con người thực sự trong sáng thì giống như là nước. Nước nuôi dưỡng tất cả các sinh linh, tưới tắm cho mặt đất, nó không tranh đấu vì quyền lợi, và cũng không cần sự báo đáp. Đó là sự khiêm nhường lớn nhất và đức hạnh cao cả nhất. Làm phước cho người khác mà không cần báo đáp rất được kính trọng bởi vì nó là lòng Vị Tha. Nếu những ai làm phúc cho người khác mà có thể suy nghĩ được ở tầm mức này: hào phóng cho đi khi họ thấy người khác đau khổ, toàn ý chu cấp khi họ gặp người khác đang chịu khổ nạn cam go và sau đó không quan tâm liệu người mà họ giúp có thể hoàn trả lại cho họ hay không, và nếu, trong những hoàn cảnh như thế, mà nội tâm của họ hoàn toàn thanh thản, không than phiền hay hối tiếc, nếu họ có thể làm mọi việc theo cách đó, thì họ sẽ tích được Đại Đức và vì vậy chắc chắn là được cái lợi vĩnh hằng.

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013

Một tâm hồn khoáng đạt bình thản như mặt hồ phẳng lặng

Trong cuộc sống hằng ngày tôi nhìn thấy nhiều người nóng nảy, người mà dễ tức giận chỉ vì những chuyện nhỏ hoặc là lăng mạ người khác nếu người ta nói không vừa ý, một số còn dùng đến cả bạo lực. Đôi khi tôi gặp những người tu luyện có tâm tính cao. Trong cuộc sống hằng ngày, họ luôn luôn xử lý sự việc một cách điềm tĩnh và tử tế. Khi đối mặt với xúc phạm và sỉ nhục họ chỉ bình thản như mặt hồ phẳng lặng vậy.

Một lần, tôi tò mò hỏi một người tu luyện: “ Làm sao tôi có thể có thể đạt được sự độ lượng khi bị lăng mạ? Làm thế nào tôi có thể bình thản như mặt hồ phẳng lặng?” Anh ta cười và nói: “ Để có thể bình thản như mặt hồ phẳng lặng, then chốt là vất bỏ tất cả chấp trước và từ bỏ mọi tình cảm và dục vọng. Do vậy bạn phải học làm thế nào để buông bỏ bản thân mình”. Tôi hiểu! Trong thế giới con người, nguyên nhân tại sao mà có nhiều tranh cãi và tại sao tâm người ta không ngừng nghỉ và cảm thấy không yên tĩnh là vì họ quan tâm quá nhiều về chính bản thân họ.

Là một người đàn ông trung niên, tôi thích tư tưởng yên tĩnh và coi mọi thứ càng ngày càng nhẹ. Tôi biết coi nhẹ mọi thứ sẽ mang đến niềm vui, một tâm hồn khoáng đạt, và là sự thể hiện của một cảnh giới tư tưởng cao đẹp. Bởi nó là bình thường khi có sinh, lão, bệnh, tử, thế thì tại sao chúng ta lại lo lắng khi đề cập đến những thăng trầm trong cuộc sống? Chỉ sau khi một người hoàn toàn hiểu được ý nghĩa của cuộc đời thì anh ta mới có được một tâm hồn trong sạch và sáng suốt như như mặt hồ phẳng lặng.

Hạnh phúc mà thành công đem lại giống như làn sóng bất thường- sau khi thủy triều đến rốt cuộc nó sẽ biến mất. Do đó, đối với một người, cảnh giới cao nhất là thực sự coi nhẹ mọi thứ. Nếu bạn suy nghĩ kỹ, bình thản như mặt hồ phẳng lặng sẽ là cảnh giới cao nhất trong cuộc sống. Có một tâm trí tĩnh lặng, không bị ảnh hưởng bởi niềm vui hay nỗi buồn. Khi bị sỉ nhục, một người sẽ không nổi giận; khi gặp vấn đề, một người sẽ không lo sợ. Khi đối mặt với thăng trầm nghiêm trọng, khi đối mặt với vui buồn cực độ, một người vẫn giữ được bình tĩnh và đón nhận chúng một cách bình thản. Như thế thật phóng khoáng và cao quí biết bao.

Đón nhận mọi thứ một cách điềm tĩnh cũng là thể hiện của trí huệ. Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, tướng Tư Mã Ý bên tấn công chỉ huy 150.000 quân lính đánh vào Nhai Đình. Trong khi đó, Gia Cát Lượng thuộc bên phòng thủ chỉ có 2500 quân lính. Nhưng Gia Cát Lượng không run sợ. Với hai đứa trẻ đứng bên cạnh, ông ta ngồi trong thành chơi đàn tam thập lục một cách điềm tĩnh. Tiếng nhạc thanh bình làm Tư Mã Ý run sợ bỏ đi. Tinh thần độ lượng đáng ca ngợi này, “Không sợ khi núi Thái Sơn đổ trước mắt, không sợ khi sét đánh gần kề” không thể đạt được bởi một người bình thường.

Nhiều lúc khi tôi nhìn dòng suối chảy một mạch từ núi xuống đại dương, tôi thấy phẩm chất của dòng suối thật đáng khâm phục: Nó giống như là không màng tới danh tiếng và giàu có, vứt bỏ lợi ích cá nhân, và đứng tách biệt với thành công thế gian! Có người từng nói: “Sự thẳng thắn là sự thật, sự yên bình là vận may”. Tôi nghĩ rằng sự tĩnh lặng thật sự là tâm hồn bình thản như mặt hồ phẳng lặng.

Những điều tầm thường trong cuộc sống sinh ra bởi những ước muốn không cần thiết. Tâm con người bị che phủ bởi bụi, bị chất nặng bởi những cám dỗ trong thế giới vật chất. Thời Trung Quốc cổ, có một vài học giả mà tâm hồn điềm tĩnh như mặt hồ phẳng lặng. Đào Tiềm trồng hoa cúc và hoa sen; Lý Bạch uống rượu và thưởng thức ánh trăng; Tô Thức chợp mắt trên chiếc giường mây. Trong sự hỗn loạn của thế giới này, tâm tĩnh lặng tồn tại đồng thời với tâm cuồng dại.

Một người thường trở nên thất vọng khi gặp khó khăn; anh ta cảm thấy đau khổ và tổn thương; anh ta phải chịu đựng khi bị thóa mạ; anh ta tức giận khi bị lừa dối; anh ta sợ hãi khi đối mặt với khảo nghiệm sinh tử. Thực tế, điều đó cho thấy rằng khả năng tập trung của anh ta không đủ và anh ta chưa hoàn thiện bản thân qua tu luyện. Một vị Giác Giả không bị bối rối bởi những chuyện vặt vãnh thế gian; vị ấy không lo sợ khi gặp khó khăn; vị ấy không hoảng loạn khi đối mặt với nguy hiểm; vị ấy đối mặt với sự lăng mạ với một cái mỉm cười; vị ấy đối mặt với lừa dối với sự từ bi. Trong bất kỳ tình huống nào vị ấy cũng vẫn giữ được sự bình thản như mặt hồ phẳng lặng.

Lão Tử nói rằng: “ Từ bi vĩ đại nhất giống như nước vậy” Khổng Tử nói: “ người khôn giống như nước, người thiện giống như núi.” Người thường có thể học được rất nhiều từ bản chất uyên thâm của nước. Khi tâm của một người tu luyện có thể tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, điều đó chỉ ra rằng anh ta đang trên đường tới viên mãn. Khi tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, tâm trí đạt đến trong sạch, khi tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, vị trí tinh thần của một người cao và thần thánh; khi tĩnh như mặt hồ phẳng lặng , một luồng từ bi tỏa ra lên tất cả các chúng sinh trong vũ trụ; khi tĩnh như mặt hồ phẳng lặng, hoa sen tinh khiết và rực rỡ sẽ nở ở trong tâm.

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

Sức Mạnh Của Lòng Nhân Từ




Dùng đức hạnh và lòng nhân từ để chỉ dạy người khác có thể khuyến khích họ trở thành người tốt. (Catherine Yeulet/Photos.com)

Thượng đế ban cho nhân loại một thứ gọi là đạo đức hay lương tâm. Đó là phần tốt đẹp nhất của con người. Nó cho phép chúng ta sống với một trái tim nhân hậu và không ngừng nâng cao đạo đức – điều quan trọng nhất cho mọi người vươn tới.

Một người đàn ông tốt là người ham đọc sách và làm nhiều việc tốt. Anh ta cũng phát triển lòng nhân từ và khuyến khích người khác trở thành người tốt.

Anh ta cũng có thể lay chuyển và giúp đỡ những người khác nhận ra tầm quan trọng của lòng nhân ái, và do đó mang lại hòa bình và thịnh vượng cho thế giới theo Thiên ý. Ngạn ngữ xưa nói rằng: “Người đàn ông tốt là người đối xử với người khác một cách nhân từ”.

Người xưa có rất nhiều câu chuyện răn dạy con cháu. Một trong số đó là câu chuyện về một người đàn ông tên Ngô Thiên Kim sống vào thời nhà Minh (1368-1644)

Ngô là một người luyện võ, mạnh mẽ và hiếu thắng. Nếu ai đó vượt lên trên anh ta thì ngay lập tức anh ta sẽ trả đũa bằng nắm đấm. Ngô cướp đoạt tài sản và tiền bạc của người khác theo ý thích và mọi người đều sợ anh ta.

Vào một ngày trời nóng, Ngô đến một gò đất cao để hóng gió, đã có nhiều người ở đó. Khi nhìn thấy Ngô, tất cả mọi người đều sợ hãi và tránh xa, trừ một cụ già.

Ngô nói với cụ già bằng giọng đe dọa, “Mọi người đều tránh ra. Chỉ có ông là không. Ông không nghĩ rằng võ nghệ của tôi rất cao cường?”

Lời khuyên tốt bụng

“Anh đang mất đi nhiều thứ và anh không nhận ra sai lầm của mình,” cụ già trả lời.

“Cha mẹ của anh nuôi dạy anh, hy vọng anh sẽ trở thành người tốt có thể mang lại lợi ích cho đất nước. Nhưng là một người võ nghệ cao cường, anh không nghĩ gì đến việc xây dựng đất nước. Không những thế, anh dường như đã tự từ bỏ vị trí cao quý đáng có của mình để trở thành một kẻ côn đồ. Đất nước mất đi một tài năng. Thật là đáng tiếc!”

Ngô cảm thấy rất xấu hổ. Anh ta vừa khóc vừa nói “Ai cũng nói tôi là một người xấu, vì vậy tôi cũng cứ nghĩ là mình xấu. Những lời tốt đẹp của cụ ngày hôm nay giống như tiếng chuông buổi sớm mai, tiếng trống ban tối, đột nhiên thức tỉnh tôi."

“Nhưng tôi là một kẻ xấu xa quá lâu rồi. Như mặt trăng bị che mờ, rất khó để quay trở lại, cho dù tôi muốn sửa chữa lỗi lầm của mình, liệu tôi có thể trở thành một người đàn ông tốt?”

Cụ già trả lời, “Nếu anh thật sự thay đổi từ tâm can và quyết tâm rèn luyện để trở thành một người tốt, thì lẽ nào anh lại không thể thành công?”

Kể từ đó, Ngô Thiên Kim thay đổi cách cư xử. Anh ta bắt đầu phục vụ cho đất nước và sau đó trở thành Phó Thống Soái quân đội. Ngô được kính trọng và ca ngợi cho những đóng góp trong quân đội và lòng yêu thương dân chúng.

Lay động nhân tâm

Có câu ngạn ngữ cổ rằng: “Con người ta không ai tránh khỏi sai lầm, nhưng quan trọng hơn là biết sửa sai”.

Khi ai đó dùng đức hạnh để khuyên bảo và dùng lòng nhân từ để đem lại thay đổi, người đó có thể truyền cảm hứng cho người khác về ý nghĩa thật sự của cuộc sống và những vấn đề đạo đức khác, chẳng hạn như làm thế nào để yêu thương và chăm sóc người khác thay vì chạy theo các ham muốn và lợi ích của bản thân.

Lòng nhân từ có sức mạnh rất lớn, bởi vì nó hiện hữu ở khắp nơi và có thể lay động mỗi con người từ trong sâu thẳm tâm hồn.

Lòng nhân từ có thể dẫn lối cho người khác trong việc tìm kiếm và tuân theo chân lý, thức tỉnh lương tâm để có những lựa chọn đúng đắn, và quy chính những điều không đúng đắn.

Nhân sinh cảm ngộ: Một mảnh lòng băng tại ngọc hồ

Với người thường, điều quý giá nhất trong thế giới con người là sự yêu thương dành cho gia đình. Tuy nhiên, với những người đại đức, họ đánh giá phẩm giá đạo đức của họ cao hơn cả. Bởi vì phẩm giá đạo đức quyết định một người tốt hay xấu, nó là điều quan trọng nhất trong cuộc đời của một người. Khi chúng tôi còn trẻ, chúng tôi thường ngâm thơ Đường. Một trong những bài thơ rất ngắn, nhưng tôi có một ấn tượng sâu sắc về nó và nó phản ánh từng câu lặp lại trong tâm tôi “Lạc Dương thân hữu như tương vấn. Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.” Vào lúc đó, mặc dù tôi ngâm nó, tôi không hiểu ý nghĩa bên trong nó. Cùng với sự trôi qua của thời gian và sự tích lũy kinh nghiệm, tôi có thể hiểu được dòng này sâu sắc hơn như là: Đó là một sự đền trả tốt nhất của lòng tốt đến những người bạn và người thân nếu một người có một trái tim tinh khiết và từ bi.


Câu “Lạc dương thân hữu như tương vấn. Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.” là từ bài thơ “Phù Dung lâu tống Tân Tiệm”. Bài thơ đầy đủ là:

Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,
Bình minh tống khách Sở sơn cô;
Lạc Dương thân hữu như tương vấn,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

Tạm dịch (bản dịch của Tương Như):

Lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm

Mưa lạnh tràn song, đêm đến Ngô,
Sáng ra tiễn khách, núi buồn trơ;
Lạc Dương nếu có người thân hỏi,
Một mảnh lòng băng tại ngọc hồ.

Nghĩa thô sơ của bài thơ này mô tả cảnh nhà thơ đưa tiễn người bạn của mình ở Phù Dung, nơi mà ông nói với người bạn của mình nếu người thân của ông ở Lạc Dương hỏi thăm ông, thì vui lòng gửi lời chúc tốt lành và trái tim thuần khiết [phiến băng tâm] của ông đến họ. Đây là bài thơ nói về việc đưa tiễn bạn, nhưng nó mang vẻ buồn của sự biệt ly nhẹ nhàng và gắn tầm quan trọng về phẩm giá đạo đức. Hai câu đầu mô tả sự cô độc của sự chia ly. Sau đó bài thơ sử dụng 2 câu cuối để so sánh chính tác giả với phiến băng tâm, ngọc hồ và hiện tỏ tư tưởng rộng mở và sự quyết tâm mạnh mẽ. Bài thơ này có một ý nghĩa sâu sắc.

Thời cổ Trung Quốc, trong thời Lưu Tống, thi nhân Bào Chiếu sử dụng “thanh như ngọc hồ băng” để mô tả sự thanh khiết cao độ của đạo đức. Trong thời Đường, tể tướng Diêu Sùng viết “Băng hồ giới”, và thi nhân nhà Đường như Vương Duy, Thôi Hạo, Lý Bạch tất cả đều sử dụng “băng hồ” như là một công cụ văn chương để khuyến khích chính họ và tán dương tính cách cao quý. Trong bài thơ này, Vương Xương Linh sử dụng trái tim thanh tựa pha lê và băng hồ để khuyến khích chính mình và truyền dẫn sự tư tin vào chính mình. Điều quý giá nhất [gửi] đến bạn bè và người thân của ông khi ông tặng cho họ một trái tim thanh tựa băng tại ngọc hồ. Thông điệp ông muốn người bạn của mình truyền đi không phải là một thông điệp bình thường về sự an toàn, mà là thông điệp về việc giữ sự trong sạch và niềm tin của riêng ông. Với phẩm chất trung thực này, ông có được sự tôn trọng, và người sau này luôn sử dụng “phiến băng tâm tại ngọc hồ” để mô tả khát vọng và những sở thích cao quý.

Người khác nhau có những hoài bão và mơ ước khác nhau, vì thế họ có những theo đuổi riêng. Trong cuộc sống ngắn ngủi này, một vài người nghĩ rằng tiền là quan trọng nhất và họ theo đuổi sự giàu có suốt đời họ. Một vài người đánh giá danh tiếng và theo đuổi nó hết sức. Vài người xem quyền lực là tất cả và đặt hết sức lực cá nhân [vào nó] như là ưu tiên hàng đầu. Cuối cùng, vài người thì tìm kiếm tình cảm như là thứ quan trọng nhất trong đời. Chỉ có những ai với tiêu chuẩn đạo đức cao có thể vượt qua thế tục này và không bị mê ảo bởi danh và lợi. Mặc dù họ không nổi tiếng nhưng họ vẫn giữ được sự thanh khiết và cao quý.

Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

Tâm an dật còn nguy hại hơn cả rượu độc


(Ảnh Photos.com)

Ông Đào Khản là một viên quan nổi danh ở Dương Quận (tỉnh Giang Tây ngày nay), Trung Quốc dưới triều đại Đông Tấn (317–420). Ông đã giành được nhiều công trạng trên chiến trường và trở thành thống sứ của Kinh Châu.

Vài kẻ ganh ghét đã vu cáo ông. Kết quả là ông đã bị giáng chức và chuyển đến một nơi rất xa xôi ở Quảng Châu.

Ở Quảng Châu có rất ít việc phải lo, nhưng ông Đào không bao giờ tận hưởng sự an nhàn hay truy cầu thoải mái. Ông khiêng 100 viên gạch từ phòng đọc sách ra sân mỗi buổi sáng, và sau đó đến tối lại khiêng số gạch ấy quay vào phòng đọc sách.

Người ta rất tò mò vì hành động này. Và khi được hỏi, ông Đào trả lời: “Tôi có ý định phục hồi lại chức quan ở Kinh Thành. Nếu tôi sống quá an dật và trở nên tự mãn, tôi e rằng mình sẽ không thể thực hiện được mục đích này.”

Sau đó, ông Đào đã được chuyển về lại Kinh Châu. Mặc dù bận rộn hơn hồi ở Quảng Châu, ông vẫn hàng ngày khiêng gạch để tăng sức mạnh ý chí. Người ta gọi ông là “ông già khiêng gạch”.

Ông Đào Khản thường kể rằng: “Đại Vũ, vị thánh nhân đã sáng lập nên triều đại nhà Hạ (năm 2.100 TCN), là một nhà hiền triết, mà ông vẫn biết trân quý từng phút. Chúng ta là những người bình thường thôi, do đó chúng ta nên biết quý trọng từng giây. Làm sao chúng ta có thể phóng túng bản thân và say mê các trò tiêu khiển hoặc khoái lạc mà quên đi nhiệm vụ của mình?”

Ngày nay, có những nơi được gọi là Tích Âm Lý (khoảng thời gian đáng quý) ở quận Khai Phúc, thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam. Người ta nói rằng cái tên đó được đặt theo câu nói nổi tiếng của ông Đào về việc quý trọng thời gian.

Ông Đào giữ một vị trí rất quan trọng và chịu đựng nhiều gian khó. Ông không hề truy cầu sự an dật. Ông bền bỉ đến nỗi trong khi đang làm quan ở Kinh Châu, ông lại được nhậm chức Đại Nguyên Soái thống lĩnh chiến trường phía Tây. Ông đã trở thành một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử.

Trong thời Xuân Thu (770 – 476 TCN), Quản Trọng, danh tướng nước Tề đã từng khuyên răn Tề Hoàn Công: “Con người không nên truy cầu thức ăn ngon, sự thoải mái, và rượu chè”.

Các bậc tiền bối đã thấy rằng sự an nhàn là thứ có hại hơn cả rượu độc bởi vì sự an nhàn làm xói mòn ý chí của của con người. Có một câu ngạn ngữ cổ rằng: “Người ta thường sống sót qua khổ nạn, nhưng lại bỏ mạng trong sung túc”, cũng có ý nghĩa tương tự.

Trong Hán Thư (những ghi chép lịch sử về triều Hán) có nói: “Người xưa coi sự an nhàn như là rượu độc, và việc đánh đổi nhân cách đạo đức để được giàu sang là sự bất hạnh. Ngay từ thuở sơ khai của triều Hán (từ năm 1 đến năm 5 TCN), trong số hàng trăm Vương hầu, Hoàng đế, hầu hết họ đều bại hoại, suy đồi nhân phẩm.

Tại sao lịch sử lại diễn ra như thế? Đó là vì môi trường sống và địa vị của họ đã làm họ chìm đắm trong tình trạng buông thả bản thân.”

Đây thực sự là một bài học để chúng ta, những thế hệ theo sau học hỏi.

Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

Văn hóa Người hiền đức được Trời Thần phù hộ

Hồng Mại là một học giả nổi tiếng thời Tống. Trong các tác phẩm của ông, có chuyện kể về Hoàng Tông kính trọng Thần Phật và mộ Đạo. "Người tốt trời phù hộ, thực sự là có Thần trợ giúp; gặp nạn chuyển thành lành, chuyển họa thành phúc". Nội dung câu chuyện như sau:

Hoàng Tông làm quan Huyện lệnh huyện Mân Thanh, Phúc Châu (nay thuộc Phúc Kiến) vào thời vua Tống Huy Tông (năm 1119). Ông rất kính trọng và tin tưởng Thần Phật, thích ăn chay, nhưng hàng ngày đều làm cơm thường cho mẹ, hiếu kính với với người già cả. Ông chính trực và uy nghiêm, không sợ những thế lực hung tàn. Ông không nhận lễ vật của cấp dưới, cũng không đút lót quan trên. Càng không bao giờ có chuyện giao du và săn đón những kẻ quyền quý. Vì thế bọn tham quan rất căm ghét ông.


Ảnh minh họa ( nguồn internet )

Thời đó Đạo giáo đang thịnh hành, có không ít Đạo sỹ đức cao vọng trọng, làm nhiều việc tốt, được mọi người hoan nghênh và chào đón. Thượng thư trong triều lúc ấy là Hoàng Miện Trọng đang làm quan Thái thú Phúc Châu, nghe nói các Đạo sỹ vì trăm họ mà làm pháp sự, được người ta bố thí cho chút đỉnh, thế là sinh lòng đố kỵ và ác tâm. Ông ta ra lệnh cho 12 viên Huyện lệnh dưới quyền của mình: thu thuế các Đạo sỹ. Dùng thủ đoạn kinh tế để vơ vét tiền của, dùng thủ đoạn chính trị mà chèn ép họ. 11 huyện của Phúc Châu đều chấp hành theo mệnh lệnh của Thái thú Hoàng Miện Trọng, thu mấy trăm vạn tiền thuế từ các Đạo sỹ, chỉ có một mình Hoàng Tông không chấp hành lệnh đó.

Hoàng Tông cho rằng: tín đồ của Đạo gia, tuyên dương cái Thiện truy cầu điều Chân, khơi nguồn Đức hạnh, có ích với xã hội và hợp với lòng dân. Không thể vơ vét và chèn ép họ về kinh tế như thế được. Hơn nữa, triều đình cũng chưa từng ban bố lệnh trưng thu thuế của giới Đạo sỹ, nên không thể tùy tiện làm như thế. Ông kiên quyết không chịu làm. Nhưng quan Thái thú vẫn cứ hối thúc mãi. Hoàng Tông bèn lấy lương bổng 4 tháng của mình thay thế cho tiền thuế thu của giới Đạo sỹ, giao nộp cho quan Thái thú. Thái thú thu được tiền rồi, trong lòng vẫn chưa thỏa mãn. Nhưng cũng chẳng có biện pháp gì để hoạch tội Hoàng Tông, bởi vì những việc ông làm đều phù hợp với pháp lý, cho nên đành âm thầm nuôi hận trong lòng.

Sau này cơ hội để trừng trị Hoàng Tông đã đến. Triều đình muốn phái một người làm Liêm phỏng sứ, đến các nơi để thị sát điều tra, khảo sát thành tích của các cấp quan lại. Lúc đó ông này được sắp đặt là sẽ tới Phúc Châu. Liêm phỏng sứ và Thái thú đều là những kẻ chuyên ăn hối lộ và làm chuyện phi pháp, đều rất căm hận Hoàng Tông.

Liêm phỏng sứ điều tra Phúc Châu xong, sau đó trở về kinh thành, gặp viên quan nào trong triều cũng đặt điều nói bậy để bôi nhọ Hoàng Tông. Mọi người đều cho rằng: chuyến này Hoàng Tông xúi quẩy rồi!

Có một ngày, Liêm phỏng sứ vào cung để hầu Hoàng thượng. Tống Huy Tông đột ngột hỏi: "Khanh đi Phúc Châu thị sát, trong số 12 viên Huyện lệnh dưới quyền, thì ai là người hiền đức?". Liêm phỏng sứ không ngờ Hoàng thượng lại hỏi câu này, sợ đến mức kinh hoàng lúng túng, trong đầu rỗng tuếch, không biết phải trả lời ra sao. Hoàng thượng hỏi lại lần nữa, ông ta đang quýnh quáng, thì đột nhiên nhớ ra được một cái tên: Hoàng Tông! Thế là liên tục kêu : "Hoàng Tông hiền đức! Hoàng Tông hiền đức!".

Thế là ngay trong ngày hôm đó, Hoàng thượng hạ thánh chỉ: "Thăng cấp cho Hoàng Tông làm quan Thông phán Chương Châu!". (nay thuộc tỉnh Phúc Kiến).

Liêm phỏng sứ ra khỏi triều đình, thì đầu óc bỗng nhiên tỉnh táo trở lại, miệng lưỡi cũng không còn cứng đơ như trước. Hắn ta rất hối hận: nhẽ ra không nên nói tốt cho Hoàng Tông.

Trở về nhà, ông ta kể chuyện này cho người nhà nghe. Có người nói: "Chuyện này đúng là quỷ thần xui khiến! Là chuyện mà ông không muốn làm nhất, thì cuối cùng lại phải làm". Không lâu sau, quan lại trong triều cũng biết được chuyện này. Họ bàn tán với nhau: "Hoàng Tông là người hiền đức nên được Trời phù hộ, chuyển họa thành phúc". Ngay cả Liêm phóng sử cũng ngậm ngùi nói: "Hoàng Tông thực sự là người hiền Trời giúp!".

Thứ Tư, 13 tháng 11, 2013

Tích đức phúc báo

Lý Giác (Li Jue), người hạt Giang Dương, Quảng Lăng, triều đại nhà Đường (618–907) là người tính tình hiền lành và cẩn thận, sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời bán lương thực. Năm 15 tuổi, Lý Giác tiếp quản việc mua bán của gia đình.

Khi khách đến, ông đưa cân cho khách hàng tự cân, hơn nữa ông cũng không lấy tiền theo giá thị trường mà chỉ lấy giá đủ để trang trải cuộc sống và phụng dưỡng cha mẹ.


Nhà họ Lý mua bán lương thực, lạ thay, ngày càng được nhiều người biết đến. Lấy làm lạ, cha ông bèn hỏi cách ông bán hàng. Biết chuyện, cha ông cảm động lắm, nói: “Hồi cha bán hàng, cha biết có nhiều người bán hàng dùng mánh khoé các loại để thu lời kể cả bằng cách dùng cân các cỡ. Cân to để mua vào, cân nhỏ để bán ra. Dẫu viên chức nhà nước có đến thanh tra định kỳ vào mùa xuân, thì thủ đoạn đó vẫn tiếp tục. Còn cha lúc nào cũng dùng một chiếc cân, và tự nghĩ rằng mình là người công bình lắm rồi. Nay thấy con bán hàng như vậy, mới biết như cha vẫn là chưa đủ. Ấy vậy, con bán hàng vừa chạy vừa đảm bảo thu nhập cho gia đình. Đúng là ông Trời phù trợ cho con.”

Đến năm 80 tuổi, ông Lý Giác vẫn bán lương thực ở chợ. Bấy giờ có một người cũng tên là Lý Giác được bổ nhiệm là tiết độ sứ Hoài Giang. Ông Lý Giác bán hàng, vì nể trọng, nên đã đổi tên mình thành Lý Khoan (Li Kuan).

Tiết độ sứ Lý Giác từ ngày nhậm chức đã làm rất nhiều việc thiện cho dân: mở mang đường sá, trợ giúp người nghèo… Một hôm nằm mộng thấy đến một hang động hùng vĩ, và choáng ngợp trước phong cảnh đẹp đẽ với dòng suối đầy hoa thơm cỏ lạ, chim ca bướm lượn mây lành vờn quanh. Đi một chập, ông gặp bức tường đá khắc chữ vàng “Lý Giác”. Ông vui mừng quá đỗi và tự nhủ: Đời này mình làm nhiều việc thiện nên sau được lên cõi tiên. Chợt có hai tiên nữ bay qua, ông bèn hỏi, và được biết rằng đây là động trời Hoa Dương Động, và tên người khắc trên vách đá không phải là ông Lý Giác tiết độ sứ, mà là ông Lý Giác tại Dương Giang.

Tỉnh mộng, ông quyết định đi tìm xem ông Lý Giác tại Dương Giang là ai. Sau nhiều nỗ lực, ông được biết rằng nay ông Lý Giác kia đã đổi tên thành Lý Khoan, và ông ta đã trở thành người tu Đạo từ năm ông 60 tuổi. Ông bèn thân chinh đến thăm ông Lý Khoan tại nhà, mong cầu học hỏi thuật tu Đạo. Gặp mặt, ông Lý Khoan không nói về thuật tu Đạo, mà chỉ kể về cuộc đời bán hàng của mình. Câu chuyện làm ông Lý Giác hiểu ra, và tán thán: “Đời này ông đã làm điều mà người thường rất khó làm nổi. Với những gì tôi đã làm, cũng không thể sánh với đức mà ông đã tích được trong đời này”. Ông Lý Giác ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp: “Giờ tôi đã hiểu. Luật nhân quả là đúng. Một người dẫu nghèo nhưng biết tích đức, thì Trời cũng phù hộ độ trì, thậm chí đưa tên vào danh sách tiên. Cũng là một bài học giáo huấn cho con người thế gian”. Vì ông Lý Giác nhắc lại yêu cầu, nên ông Lý Khoan cũng truyền lại thuật tu Đạo và căn bản tu tâm dưỡng tính cho ông.

Ông Lý Khoan vẫn mạnh khoẻ dù đã ngoài 100 tuổi. Một hôm ông bảo con cháu rằng: “Ta ở đây đã lây rồi, và cũng không còn việc gì ở thêm nữa, dẫu rằng ngày nào ta cũng tu luyện”. Chẳng bao lâu sau ông qua đời vào nửa đêm. Ba ngày sau, người nhà nghe thấy tiếng rắc rắc trong quan tài. Họ mở ra và chỉ thấy quần áo ở lại, nhưng thân thể ông đã biến mất.

Đó là câu chuyện ông Lý Khoan tích đức cõi người, tu luyện thành Tiên và đã rời khỏi trần thế như thế nào. Có thể ông đã đến động trời Hoa Dương Động như ông Lý Giác đã từng nằm mộng thấy.

Cô Gái Tốt Bụng Được Thần Phật Ban Phước





Vào thời nhà Nguyên, có một cô gái bị mất mẹ và người thân trong trận lũ lụt. Chỉ còn mình cô trên chiếc thuyền, sức người có hạn nên cô đành phó mặc chiếc thuyền trôi theo dòng nước.


Hành trình đi đến giác ngộ

Ở tỉnh Chiết Giang và Giang Tô vào thời nhà Nguyên, có một trận lũ lớn đã nhấn chìm nhiều làng mạc và ruộng vườn. Rất may, trận lũ xảy ra ban ngày, vì vậy nhiều người biết tin và kịp thời tránh lũ, nhưng có một gia đình gồm cô con gái 15 tuổi và bà mẹ bị liệt thì không được may mắn như vậy.

Ngôi nhà hai mẹ con nằm ở khu đất trũng, khi nước tràn vào nhà, người mẹ la lên: “Nhanh lên con. Con phải chạy ngay đi; cứ để mẹ ở đây.” Cô gái không nghe và cố gắng cõng mẹ trên lưng. Nhưng thật khó khăn cho cô gái bé nhỏ. Cuối cùng, bà mẹ lấy hết sức bình sinh, đẩy cô gái ra ngoài. Đột nhiên, ngôi nhà đổ ập xuống và bà mẹ bị chết chìm trong đó. Chứng kiến cảnh này, cô con gái đã ngất đi.

Khi tỉnh dậy, cô thấy mình trên chiếc thuyền cùng người đàn ông chèo thuyền và người phụ nữ bên cạnh. Người phụ nữ mang nước nóng đến cho cô khi cô tỉnh lại.

Cô bé nghĩ về mẹ và khóc như mưa, cô thực sự không biết làm sao để đối mặt với mất mát to lớn này. Người đàn ông cố gắng an ủi cô: “Thôi nào, con gái, trận lũ này là thảm hoạ lớn và mẹ con không phải là người duy nhất bị thiệt mạng trong trận lũ”. Rồi cô gái tự hỏi. Người ta vẫn nói rằng ông Trời tốt bụng và từ bi với con người, vậy tại sao ông Trời không cho ngừng trận lũ và tại sao con người phải chịu nỗi đau mất người thân?

Vài ngày sau, một trận lũ khác lại ập đến. Vì ở trên thuyền, nên ba người được an toàn. Người đàn ông và người phụ nữ cố gắng hết sức để cứu người dân, cũng vài lần bản thân họ gần như bị lôi vào dòng lũ bởi những người sắp chết đuối. Trong nỗ lực cuối cùng để cứu người, cặp vợ chồng trên thuyền đã bị chết đuối. Chỉ còn mình cô trên chiếc thuyền, sức người có hạn nên cô đành phó mặc chiếc thuyền trôi theo dòng nước.

Năm ngày đã trôi qua và cuối cùng chiếc thuyền cập vào một hòn đảo, cô gái kiệt sức vì đói và khát. Đó là vào buổi chiều khi cô nghe thấy tiếng một bà lão đập vào chiếc bát xin ăn và nói to: “Ta đến từ thiên thượng và ta đi vân du. Khi xin bố thí với chiếc bát này, ta tìm thấy chân ngã của mình và tự hỏi khi nào một cô gái trẻ tươi sáng như bông hoa và thuần khiết như kim cương sẽ đến?”




“Ta đến từ thiên thượng và ta đi vân du. Khi xin bố thí với chiếc bát này, ta tìm thấy chân ngã của mình và tự hỏi khi nào một cô gái trẻ tươi sáng như bông hoa và thuần khiết như kim cương sẽ đến?”

Nghe thấy những lời này, không biết sức mạnh từ đâu tới, cô gái nhỏ chạy khỏi chiếc thuyền và kêu to: “Loài hoa yêu thích của cháu là hoa Ly, nó thuần khiết như kim cương”. Nghe thấy vậy, bà lão vội đỡ lấy cô gái đang kiệt sức trên tay và nhìn cô với lòng từ bi vô hạn.

Cô gái nhỏ từ đó bắt đầu đi khất thực với bà lão. Mười năm sau khi họ đang trú ẩn để tránh bão tại một ngôi đền, bà lão hỏi cô: “Tại sao con thích hoa Ly? Và tại sao con thích kim cương?”. Cô gái mỉm cười trả lời: “Con nghĩ con người cần phải trong sạch như hoa Ly và thuần khiết như kim cương”.

Nghe vậy, bà lão trả lời: “Chẳng có gì lạ khi con người thích cả hai thứ này. Chẳng hạn, con có thấy nhiều người sống ở ven biển đi đánh cá, nhưng nhiều người trong số họ bị chết đuối. Ta cảm thấy đáng tiếc cho những người đó. Vì vậy ta luôn đi khất thực ở vùng biển. Tất cả những người cho ta chút thức ăn và không bao giờ làm những việc xấu như giết người, cướp của, ta luôn cố gắng cứu họ”.

Cô gái rất ngạc nhiên và hỏi: “Bà nói vậy có nghĩa bà là hoá thân của Bồ Tát?” Bà lão hiền từ trả lời: “Không quan trọng ta là ai, nhưng con nên biết một điều quan trọng nhất là: con phải cứu người khỏi tai họa với điều kiện là người đó phải tin vào sự tồn tại của Thần Phật; nếu không, việc cứu những người đó là làm trái với Thiên ý”.

Nghe những lời này, cô gái lập tức hiểu ra, cô quỳ xuống và cầu xin bà lão ban cho cô khả năng cứu người khỏi tai họa để cô được thực hiện tâm nguyện.





Sau mười năm khất thực, họ tránh bão tại một ngôi đến. Bà lão cho biết: “Thật ra, những gì con đã trải qua trước đây chỉ để khiến con ngộ ra rằng đời người là ngắn ngủi..."


Thấy sự thành khẩn của cô, bà lão nhận cô làm đồ đệ và nói: “Ta đã từng ở bên cạnh con khi con ở quê nhà, bởi bản chất bẩm sinh của con là tốt, con là một người con hiếu thảo và dũng cảm. Ta biết rằng mặc dù con còn trẻ, con đã cố gắng hết sức để giúp đỡ những người khác, ta cũng biết rằng mẹ của con qua đời trong trận lũ lụt đó, mặc dù vậy, một khi con hoàn thành sự Tu luyện của mình thì bà cũng sẽ được ban phước, cũng như vợ chồng người lái thuyền đã cứu con. Thật ra, những gì con đã trải qua trước đây chỉ để khiến con ngộ ra rằng đời người là ngắn ngủi, vì vậy con không nên bị dính mắc vào thế giới con người. Con có nhận ra rằng con đã ở với ta 10 năm rồi hay không, ta thực sự không quan tâm người khác đối xử với chúng ta ra sao và tất cả những người đã cho chúng ta đồ ăn, ta đã cố hết sức để cứu họ khỏi tai hoạ. Và với những người đã đối xử tệ với chúng ta, ta cũng ban cho họ thêm nhiều cơ hội để trở nên tốt hơn; tuy nhiên, với những người quá tệ, ta cũng không thể làm gì hơn, chỉ có thể để mặc họ với số phận”.

Khi nghe những lời này, cô gái thêm quyết tâm đi theo Sư phụ của mình. Nhiều năm sau đó, khi cô gái đã ở độ tuổi 50, bà lão nói với cô: “Bây giờ ta phải đi”. Cô hỏi bà lão: “Dạ thưa Sư phụ, Sư phụ đi đâu ạ?”

Bà lão bảo cô quay mặt đi. Khi cô quay đầu lại, đứng trước cô không còn bà lão mù mà đó là một vị Phật uy nghi với sự từ bi mà không lời nào có thể diễn tả. Cô gái quỳ xuống và dập đầu bái lạy.

Theo ngón tay của vị Phật, cô nhìn thấy vô số những chiếc thuyền nhỏ trôi dạt trên biển cả mênh mông trong cơn gió lớn và vị Phật vớt lấy nhiều chiếc thuyền nhỏ trên tay trong khi nhiều chiếc khác biến mất trên biển. Cô cũng nhìn thấy trên những cánh buồm của những chiếc thuyền trong tay vị Phật có những chữ như “Phúc lành” hoặc “Đức hạnh” trong khi những chiếc thuyền biến mất ở trên biển luôn có một vòng đen lớn bao quanh.

Sau khi triển hiện những điều này, vị Phật từ từ bay lên không trung. Cô gái quỳ xuống tiễn biệt Sư phụ của mình. Khi ở trên không trung, vị Phật nói: “Vì từ bi đối với con người, ta đã đến thế giới con người. Quyết định tốt hay xấu của một người có thể dẫn đến hai kết quả khác nhau. Bây giờ, đến lượt con kế tục con đường của ta. Từ bi có thể cứu con người khỏi tai họa”.

Cô gái đã giác ngộ khi nghe những lời này và sau đó, cô đã vân du khắp các vùng ven biển để xin bố thí và dạy con người trở thành người tốt. Cùng lúc đó, cô không ngừng tinh tấn và đề cao, cô trở về Thiên Quốc khi 99 tuổi và hoàn thành sứ mệnh của mình.

Tại Thiên Quốc, cô nhìn thấy mẹ mình và đôi vợ chồng đã cứu cô. Với lòng biết ơn đối với người mẹ và đôi vợ chồng, cô đã để họ trở thành những vị thần bảo vệ thiên quốc.



Vị Phật từ từ biến mất trên không trung và nói: “Vì từ bi đối với con người, ta đã đến thế giới con người. Quyết định tốt hay xấu của một người có thể dẫn đến hai kết quả khác nhau. Bây giờ, đến lượt con kế tục con đường của ta. Từ bi có thể cứu con người khỏi tai họa”.

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

Khổng Tử luận về nơi ở và lòng nhân ái

Khổng Tử nói: “Nơi ở có những người nhân ái là tốt nhất. Nếu chọn ở nơi không có người nhân ái thì làm sao có thể nói đó là bậc trí giả?”


Vậy thì một con người nhân ái là thế nào? Một người nhân ái là lấy khoan dung làm nguyên tắc hành sự, không làm việc bất nghĩa, không giết hại người vô tội. Một người nhân ái luôn quan tâm đến những người xung quanh mình, cũng như những người xa lạ, và luôn giúp ích mọi người. Những người nói dối và chỉ quan tâm đến gia đình họ thì bị người có học vấn và phẩm hạnh xem là điều đáng sỉ nhục.

Trong lịch sử, khi các viên quan địa phương có đạo đức, thì quốc gia thịnh trị và Hoàng đế được tôn vinh. Khi các viên quan không có đạo đức, thì quốc gia bị nguy hiểm và Hoàng đế bị soán ngôi hoặc phát sinh biến loạn. Các vị Hoàng đế đã nhận ra nguyên tắc này để lựa chọn các viên quan hàng đầu là những người nhân ái và đất nước được thái bình. Thành Thang triều đại nhà Thương và Vũ Vương triều đại nhà Chu đều rất anh minh và đạo đức, vì thế mà họ được thiên hạ. Tuy nhiên, Vua Kiệt triều đại nhà Hạ và Trụ Vương triều đại nhà Thương, cả hai chỉ vì bất nhân mà mất thiên hạ.

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

Lợi nhuận theo công lý và chính nghĩa

Chọn lựa giữa lợi từ mỗi cơ hội kinh doanh hay công lý và chính nghĩa có thể không dễ. Trong xã hội hiện đại, những người không có nguyên tắc đạo đức ở khắp mọi nơi. Có một câu nói là “Kinh doanh là kinh doanh.” Trong khi một số công ty theo đuổi lợi nhuận như là mục đích duy nhất, chúng ta hãy xem hai ví dụ điển hình về quản lý kinh doanh trước khi chúng ta kết luận xem nên chọn giữa lợi hay nghĩa.

Bạch Khuê được lợi từ lòng từ bi
Bạch Khuê là một thương gia nổi tiếng tại thành phố Lạc Dương trong thời Chiến Quốc (475-221 trước Công nguyên). Ông được cho là một học trò của cao nhân Quỷ Cốc Tử (một triết gia thời Trung hoa cổ đại cùng thời). Bạch Khuê là một quan chức của nước Ngụy. Sau khi thăm viếng nước Tề và Tần, ông đã trở thành một chiến thuật gia về kinh tế nổi tiếng và là một chuyên gia trong lãnh vực quản lý tài chính. Theo Hán thư, Bạch Khuê là người đầu tiên soạn thảo những lý thuyết về thương mại và mậu dịch.

Khi Bạch Khuê quản lý tài chính cho quốc gia, ông đã nhìn vào toàn cảnh. Dù không bỏ qua một cơ hội kiếm tiền hay kinh doanh nào, ông không bao giờ dính líu đến những hành vi phi pháp. Chú tâm đến việc giao lưu hàng hoá và phát triển mặt hàng, ông có thể bán hàng hoá sinh lợi cho mình một cách nhanh chóng. Khi một loại hàng hóa nào đó quá thặng dư và những kẻ đầu cơ chờ cho giá xuống thấp trước khi mua một số lượng rất lớn, ông Bạch đã mua mặt hàng này với giá cao hơn giá thị trường. Khi hàng này khan hiếm, trong khi những kẻ đầu cơ chứa đầy kho hàng chờ giá lên cao rồi mới bán, ông Bạch đã nhanh chóng bán hàng của mình với giá thấp hơn giá thị trường để đáp ứng nhu cầu của người dân.

Cách quản lý kinh doanh của ông đảm bảo để ông có lợi thế là sẽ kiếm được rất nhiều lợi. Đồng thời, nó bảo đảm cho sự quân bình giữa cung và cầu và giá cả của mặt hàng đó. Một cách chắc chắn, Bạch Khuê đã bảo vệ lợi ích của các hộ nông dân, cá thể thủ công nghiệp, và người tiêu thụ nói chung.

Trong thời Chiến Quốc, ngành kinh doanh châu báu giữa những người giàu có, vương giả kiếm được nhiều lợi nhất. Bạch Khuê đã chọn buôn bán những mặt hàng nhu yếu phẩm và giao thương với những thường dân. Nguyên tắc của Bạch Khuê là “lợi ít nhưng bán nhiều”. Ông không tăng giá cao nhưng lại kiếm được nhiều lợi bằng cách bán hàng nhanh và mở mang thêm thị trường của mình. Bạch Khuê có thiên khiếu nắm bắt cơ hội. Ông dựa vào lịch cổ Mộc tinh cùng lý thuyết ngũ hành. Vận dụng tri thức thiên văn học, khí tượng học, ông đã tiên đoán và giao thương dựa trên những chu kỳ mùa màng tốt hay xấu. Ông thu mua những vụ mùa chất lượng, giá thành rẻ vào những năm có thời tiết tốt và bán chúng với giá cao trong những năm có thời tiết xấu. Bằng cách này, ông đã giúp nhiều người vượt qua những nạn đói. Trong khi đó, tài sản của cải của ông tăng rất nhanh. Bạch Khuê gọi cách quản lý kinh doanh này là “nhân thuật”.

Những nguyên tắc công lý của người sáng lập các công ty Nhật Bản
Shibusawa Eiichi được gọi là cha đẻ của các công ty Nhật bản. Ông là người đầu tiên sử dụng những tư tưởng của Nho gia trong quản lý kinh doanh. Chuyển từ chính trị sang kinh doanh vào tuổi 33, ông đã thề rằng sẽ theo đúng những tiêu chuẩn trong Luận ngữ của Khổng tử trong những hoạt động kinh doanh của mình. Trong sự nghiệp của Shibusawa, ông đã thành lập hơn 500 công ty trong các lĩnh vực khác nhau, bao gồm tài chính, sản xuất giấy và dịch vụ vận chuyển. Ông là người lãnh đạo về kinh doanh trong thời Minh Trị và Đại Chính. Vào năm 88 tuổi, ông đã viết quyển sách nổi tiếng của mình, “Luận ngữ và Bàn tính” (Analects and the Abacus), tin tưởng rằng những lời dạy trong Luận ngữ (của Nho giáo) và trong làm ăn là tương hành với nhau. Ông lý luận rằng khi thấy được một cơ hội kiếm lợi nhuận, nếu một người nghĩ cách làm thế nào để thực hiện một cách công bằng và chính trực, thì việc kiếm lợi nhuận đó sẽ là một hành động thiện tâm. Một phần trong Luận ngữ nói rằng “Theo đuổi lợi nhuận sẽ sinh ra oán hận lớn”. Người quân tử hành xử bản thân một cách công bằng và chính trực, trong khi kẻ tiểu nhân thường hành động chỉ vì lợi cá nhân.

Shibusawa không bao giờ chạy theo cơ hội. Ông biết rằng mua trái phiếu đường sắt của chính phủ sẽ đem lại cho ông rất nhiều lợi nhuận nhưng ông đã không làm như thế. Ông tin rằng nếu ông kiếm lợi bằng cách suy đoán, nó sẽ tạo cho ông một thói xấu mà có thể mất tất cả những gì ông có, khánh kiệt tài sản, và tệ hơn nữa, đem lại sự mất mát lớn cho các nhà đầu tư của ông. Một người đầu tư nên là một người đứng đắn, không nên là một kẻ bất lương. Vì thế Shibusawa đã đặt giá trị và ảnh hưởng của công việc đầu tư của mình vào xã hội lên trước lợi nhuận.

Tranh luận về Nghĩa và Lợi: Điều gì đặt trước?
Ở cả phương Đông và phương Tây, vấn đề xem điều gì đặt trước, nghĩa hay lợi [cá nhân], vẫn chưa được giải quyết. Đây là hai điều trái ngược hay tương quan với nhau? Theo đuổi lợi ích cá nhân và tránh mất mát hình như là bản chất của con người. Tuy nhiên, khi lợi ích thực tế mâu thuẫn đến giá trị công lý chung, thì điều gì nên phải hy sinh?

Một trong bốn cuốn sách kinh điển của Nho gia, Đại học, có viết, “Một người quân tử phải chú ý tu đức bản thân. Nhờ đức, một người có được sự kính nể của người dân; nhờ dân, người đó có đất đai; nhờ đất đai, người đó tạo ra của cải; với của cải, người đó có thể dùng nó. Đức là gốc, và của cải là những ngọn cây”. Do đó, Khổng tử đã giảng, “Thấy lợi xét nghĩa”, “Làm giàu bất nghĩa đối với ta cũng tựa phù vân”, và “Người quân tử hiểu tầm quan trọng của nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết sự quan trọng của lợi.” Những thương nhân thời xưa ở Trung Quốc qúy trọng lời dạy của Nho giáo vốn tin vào nguyên tắc “Người quân tử muốn của cải sẽ kiếm nó bằng con đường ngay chính”.

Amartya Sen, một người được giải Nobel nói rằng khi kinh tế phát triển, thì cần phải quay lại với đạo đức, vì bất kể con người cố thoát khỏi sự hạn chế của đạo đức như thế nào, họ sẽ bị thất bại vì đạo đức là một thuộc tính tự nhiên của các hoạt động kinh tế.

Ông Lý Hồng Chí, người sáng lập Pháp Luân Đại Pháp, đã giảng về phú (của cải) bằng một luận thuật căn bản hơn:

“Đức là tích từ đời trước; vua, quan, phú, quý thảy đều từ đức mà ra, vô đức thì chẳng được gì, mất đức sẽ mất hết. Vậy nên kẻ mưu quyền kẻ cầu tài ắt phải tích đức, chịu khổ hành thiện là có thể tích đức từ quần chúng.” (“Giàu mà có Đức” từ Tinh Tấn Yếu Chỉ)

Đạo đức phải là tiêu chuẩn tối hậu và căn bản của tất cả mọi hoạt động. Những hoạt động về kinh tế phải là những hành động vô ngã nhưng cũng mang lại lợi nhuận cho thương nhân. Như thế, một thương nhân càng làm nhiều điều tốt cho người khác, thì người đó càng được nhiều lợi như là một sự tưởng thưởng. Nghĩa và lợi phải là một thể thống nhất. Của cải và lợi nên đến từ những việc làm phù hợp với công lý và chính nghĩa.

Các công ty cũng phải chọn lựa giữa thiện và ác
Trước sức hấp dẫn của những món lợi to lớn, không phải ai hay một công ty nào cũng được trang bị những con mắt biết nhìn xa trông rộng.

Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã xây Vạn lý Hỏa thành để ngăn chặn tự do tin tức mạng. Mọi người đều biết đây là điều ác. Nhìn thấy thị trường 300 triệu người dùng mạng internet tại Trung Quốc, là thị trường lớn nhất thế giới, Microsoft đã chọn cách chủ động hợp tác với những hành động tà ác này, trong khi đó Google đã chọn đi theo nguyên tắc đạo nghĩa “không làm điều ác” và rời khỏi thị trường Trung Quốc.

Ngân hàng Dresdner đã từng tích cực hợp tác với Đức Quốc xã. Để gánh chịu trách nhiệm đạo đức của mình và để đánh thức lương tâm của những ngân hàng khác, ngân hàng này sau đó đã dùng rất nhiều nhân lực và tài chính để điều tra những tội ác trước đây của Đức Quốc xã và phơi bày cho công chúng. Khi công bố bản báo cáo điều tra, ông Wulf Meier, một thành viên hội đồng lãnh đạo ngân hàng đã nói, “Chúng ta phải trình bày những tin tức này đúng như nó xảy ra. Dù có đau đớn đến đâu, chúng ta cũng phải chấp nhận những sự thật này”. Ông đã nhấn mạnh rằng tất cả những hành động vô nhân đạo đều bắt đầu từ những việc nhỏ, và lịch sử đã cảnh cáo chúng ta về điều này mỗi ngày.

Từ khi Giang Trạch Dân và chế độ của ông ta phát động cuộc đàn áp Pháp Luân Công vào tháng 07 năm 1999. Bạc Hy Lai đã theo sát Giang Trạch Dân và dành mọi nỗ lực để đàn áp pháp môn này để kiếm lợi cho cá nhân. Mổ cướp nội tạng của các học viên Pháp Luân Công để cấy ghép bất hợp pháp và bán thi thể của họ cho một công ty kiếm lời cho Bạc Hy Lai, vợ của ông ta là Cốc Khai Lai, và đồng minh về chính trị Chu Vĩnh Khang. Gunther Von Hagens đã chọn đầu tư vào một “xưởng gia công thi thể” tại Đại Liên vào tháng 08 năm 1999 (thi thể người bị cắt đi một phần và được “nhựa hóa” phần còn lại và sau đó được dựng lên theo hình dạng như đang sống và được dùng như một phần của các cuộc triển lãm “Thế giới cơ thể” (Body Worlds của Von Vagens). Ông ta nói với các phóng viên khắp thế giới rằng mình chọn thành lập công ty tại Đại Liên vì “được chính quyền ủng hộ, có chính sách đặc quyền, nhân công tốt, lương thấp, cũng như có nguồn cung cấp thi hài dồi dào”. Những thi hài mà nguồn gốc không biết là từ đâu đã kiếm bạc tỉ cho những người này. Những ai còn lương tâm đều cảm thấy đau đớn. Có bao nhiêu tội ác tày trời đã xảy ra đằng sau những cuộc triển lãm ghê rợn này?

Tiến sĩ Gunther von Hagens - sáng lập công ty Von Hagens Plastination  bên các "tác phẩm" của mình
Trong thực tế, những thương nhân coi trọng giá trị công lý và chính nghĩa có vẻ bị bất lợi khi so sánh với những người chỉ biết lợi lộc và làm giàu. Tuy nhiên, chính nghĩa và lợi có quan hệ tương quan căn bản; có một khoảng cách về thời gian – không gian giữa hai điều này. Một người phải nên tích đức trước và lợi sẽ đến sau. Đạo đức vô hình, lợi ích hữu hình. Người thường không nhìn thấy đức và vì thế không tin tưởng vào điều này. Chỉ có những người giác ngộ mới thấy được pháp lý cao tầng về nhân – quả. “Nhà nào tích thiện – đức thì con cháu hưởng tương lai tốt đẹp; nhà nào không tích thiện – đức sẽ để lại tai ương”. Những ai hành thiện và theo đúng những nguyên tắc công lý và chính nghĩa là đang tạo nền móng vững chắc cho tương lai tốt đẹp cho chính họ. Những ai làm giàu bằng những hành động tà ác là đang đào một đường hầm đổ nát.

Những công ty chân chính phải tạo phúc cho nhân loại để theo đuổi những lợi ích dài lâu cho chính họ và nhân viên của họ, xin hãy nhớ nguyên tắc tạo lợi nhuận – đó là công lý và chính nghĩa. Xin hãy trân quý lương tâm của bạn và hãy chọn lựa đúng giữa thiện và ác trong giai đoạn lịch sử quan trọng này.

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

Bất Nhân bất Phú

Vua Ngu Thuấn là một trong năm vị Hoàng đế thời thượng cổ, họ Diêu tên Trọng Hoa (nay là người Gia Thành, tỉnh Sơn Đông). vua Thuấn tài năng lỗi lạc, phẩm hạnh cao thượng. Ngay thời thanh niên ông đã nổi tiếng vì rất mực hiếu thuận.

Thuấn xuất thân hàn vi. Dù là hậu duệ của vua Chuyên Húc, nhưng gia đình năm đời là thường dân, ở tầng lớp thấp trong xã hội. Phụ thân của Thuấn, Cổ Tẩu, là người khiếm thị, mẫu thân tạ thế từ rất sớm. Cổ Tẩu lấy vợ lẽ. Bà sinh hạ một người con trai, đặt tên là Tượng. “Phụ ngoan, mẫu hiêu, Tượng ngạo” (Cha gàn dở, mẹ quát tháo, (em là) Tượng hỗn láo – theo điển cố vua Nghiêu); mấy người đó câu kết với nhau, nhiều lần hại Thuấn vào đường chết. Dù vậy với phụ mẫu Thuấn cũng không hề đánh mất đạo làm con, mà vô cùng hiếu thuận, với tiểu đệ cũng không đánh mất đạo làm huynh trưởng, luôn bảo vệ, yêu thương, đối đãi tử tế. Không phải chỉ một hai ngày mà bao năm cũng vậy, không hề có chút thay đổi. Những lúc bị người nhà hãm hại Thuấn đều trốn chạy. Chỉ cần có chút biến chuyển, Thuấn lập tức trở về bên họ, dốc lòng trợ giúp. Cho nên “người nhà muốn giết Thuấn không được, nhưng khi cầu trợ giúp lại thường ở bên”. Thuấn ma luyện bản thân trong môi trường nghiệt ngã như vậy, đạo đức tu dưỡng ngày càng cao thâm.

Tương truyền, Ngu Thuấn còn cống hiến to lớn cho sự phát triển đồ gốm Trung Hoa. Vì kế sinh nhai, Thuấn từng chế tác đồ gốm tại thôn Gia Phùng ven sông Hoàng Hà. Sử sách có ghi chép lại “Thuấn chế tác gốm, tinh tế mỹ lệ vô cùng”. Thuấn chế tác gốm với công nghệ tinh túy, dáng hình mỹ lệ, giá cả phải chăng mà lại bền chắc. Thuấn chú trọng lựa chọn vật liệu, nghiêm túc trông lửa, nhào nặn đến nơi đến chốn. Cho nên đồ gốm của ông rất được mọi người ưa chuộng. Rất nhiều người làm đồ gốm đều muốn thỉnh giáo Thuấn. Thuấn cũng vui vẻ truyền thụ kỹ thuật cho họ. Do Thuấn có đức, rất nhiều người mua đồ gốm không quản đường xá xa xôi đều tìm đến, tranh nhau mua. Nhưng Ngu Thuấn trước sau không hề cẩu thả, thậm chí giá thành cũng không chịu nâng lên, chỉ cần lợi nhuận 10 phần lãi 1 (10%) mà thôi.

Ảnh minh họa ( Nguồn: Internet)

Lúc đó, Thuấn lần lượt phổ biến kỹ thuật làm gốm ra khắp vùng Bắc Nam sông Hoàng Hà. Kể từ khi người chế tác gốm xuất hiện ngày càng nhiều ở khu vực lân cận Đông Di, dẫn đến hàng hóa cung không đủ cầu, thợ làm gốm do tham lợi, bắt đầu bòn rút nhân công, vật liệu, nhào bùn không đến nơi đến chốn, rút ngắn thời gian nung, khiến gốm giòn yếu, dùng chưa được bao lâu đã vỡ vụn. Thợ làm gốm do tiết kiệm nhân công, thời gian, vật liệu mà thu được món hời lớn.

Sau khi nghe nói chuyện này, để hướng dẫn thợ làm gốm, đồng thời cũng vì lợi ích của bách tính, Thuấn đến đất Vệ mở một xưởng làm gốm. Tại đây ông nghiên cứu tỉ mỉ kỹ thuật tạo phôi và chế tác gốm. Thuấn sử dụng kỹ thuật chế tác, nung gốm tiên tiến, mong chế tác ra loại gốm bền chắc. Trên bề mặt còn trang trí hoa văn mỹ lệ, miệng gốm từ to thành nhỏ dần, được mọi người đón nhận. Thương nhân tranh nhau mua gốm của Thuấn.

Tương truyền, do mọi người tranh nhau đổ xô mua gốm của Thuấn, khiến cho những thợ gốm trước kia ai nấy làm ăn ế ẩm. Thuấn nói với mọi người:“Các vị cho rằng tôi đến tranh giành mối làm ăn của các vị chăng? Tôi có quyền chế tác, nhưng quyết định mua là ở mọi người. Mọi người không muốn mua tôi cũng không cưỡng ép. Mọi người đến mua, tôi cũng không thể từ chối được. Các vị thử nghĩ xem, cùng là đồ gốm, sao mọi người không muốn mua gốm do các vị chế tác, mà muốn mua gốm do tôi chế tác? Nguyên cớ do đâu?” Mọi người trả lời rằng: “Gốm của ông rất bền, giá lại rẻ. Gốm của chúng tôi giòn xốp, giá lại đắt. Cho nên mọi người mua gốm của ông, không mua gốm của chúng tôi nữa. Đây há chẳng phải ông có ý đối nghịch, tranh giành mối làm ăn với chúng tôi hay sao?”

Thuấn nói rằng: “Đối với các vật dụng hàng ngày của con người, các vị nhất định không mua các sản phẩm chất lượng thấp. Vậy thì tôi sao lại có thể làm ra thứ đồ gốm giòn dễ vỡ đó mang đi bán cho người khác”. Mọi người nói: “Trước nay mọi người đều mua đồ gốm của chúng tôi. Từ khi ông đến, họ không mua sản phẩm của chúng tôi nữa. Do đó nguyên nhân là tại nơi ông chứ không nằm ở bình gốm của chúng tôi”. Thuấn đáp: “Điều này không đúng. Người dân mua gốm của các vị là bởi họ không có lựa chọn nào khác nữa. Họ buộc phải mua sản phẩm của các vị chứ không phải vì họ thích mua chúng. Đơn cử như trong suốt những năm vụ mùa thất bát, người dân phải ăn cám và ăn cỏ, nhưng không phải vì họ muốn vậy, mà là vì họ buộc phải làm như vậy. Hiện tại các vị đem những đồ gốm dễ vỡ của các vị cấp cho người ta, há chẳng phải các vị đang làm điều tương tự như cưỡng ép họ ăn cám bã và rễ cây sao. Điều đó chẳng phải bất nhân hay sao?” Những người thợ gốm đáp lời: “Chúng tôi là những người thợ thủ công sống nhờ kỹ năng của mình. Chúng tôi chỉ cần biết kiếm tiền và trở nên giàu có. Chúng tôi không quan tâm điều đó có phải bất nhân hay không!”Thuấn nói: “Đó không phải là như vậy. Có chữ nhân ở trong chữ phú. Nếu như các vị bất nhân, nơi đâu các vị có thể tìm kiếm sự giàu có?” Nghe được điều này, các thợ gốm háo hức muốn biết vì lý do gì, vì vậy Thuấn hướng dẫn thợ gốm, nói rằng: “Sự khác biệt giữa con người và động vật chính là ở chữ nhân. Ta chẳng lừa người, họ hà cớ gì mà lừa ta. Nếu ta lừa người, họ tất sẽ lừa ta. Để trở nên giàu có, các vị đã lừa dối người khác bằng cách bán những bình gốm dễ vỡ. Tuy nhiên, mọi người đều muốn kiếm tiền và trở nên giàu có. Nếu mọi người trong tất cả các ngành nghề suy nghĩ như các vị và làm ra những sản phẩm tồi tàn có chất lượng thấp, tôi hỏi các vị rằng liệu các vị có thể kiếm tiền được chăng? Những gì các vị làm chỉ là đồ gốm, và các vị phải mua vô số mặt hàng khác từ những người khác. Các vị chỉ có một sản phẩm để cạnh tranh với nhiều sản phẩm khác, vì vậy các vị có thể chiến thắng như thế nào? Thậm chí nếu các vị kiếm được lợi nhuận nhiều hơn nữa nhờ số đồ gốm, các vị cũng không biết các vị phải chi tiêu bao nhiêu tiền cho các sản phẩm khác! Bất nhân bất phú, lẽ gì mà các vị lại không minh tỏ điều này?”

Những người thợ gốm hiểu ra và nói: “Đúng vậy, trong nhiều năm qua, nhiều sản phẩm bán ở chợ càng ngày càng thiếu bền chắc, chính là bởi nguyên nhân này”. Sau đó, những thợ gốm này đã học theo cách chế tác những đồ gốm tốt của Thuấn và tự mình kinh doanh một cách trung thực. Họ chú ý đến đồ gốm của mình hơn là làm ra những sản phẩm chất lượng thấp. Đồ gốm của họ lại được chế tác chắc chắn và có độ bền cao.

Đông Di hoang dã, dân tình bạc bẽo. Hiện tượng kinh doanh đương thời vì theo đuổi lợi nhuận mà chế tác các sản phẩm chất lượng kém có rất nhiều. Nhưng thánh nhân trị quốc“Đức vi tiên, trọng giáo hóa” (Lấy đức làm đầu, coi trọng giáo hóa), chứ không lấy luật pháp hà khắc làm gốc. Thợ chế tác gốm nhờ sự giáo huấn và tấm gương của Thuấn mà tự quy chính lại bản thân, diện mạo trong vùng cũng dần trở nên thuần hậu, không cần phải răn dạy nhiều lần, càng không phải cưỡng chế áp đặt, chỉ cần truyền tâm pháp, người người ai cũng trọng đức hành thiện, vô vi mà trị thiên hạ. Trong “Sử ký ghi chép về Ngũ Đế” bình luận vua Thuấn như sau: Thuấn cày ở Lịch Sơn, người Lịch Sơn đều nhượng bờ; đánh cá ở Lôi Trạch, người Lôi Trạch đều nhường nhà; làm gốm ở Hà Tân, gốm Hà Tân đều không còn hàng thứ phẩm. Một năm tụ họp, hai năm lập ấp, ba năm thành đô. Nơi đâu Thuấn bỏ công sức, nơi đó đều hưng khởi phong thái lễ nghĩa. Thuấn đi đến đâu mọi người cũng muốn theo. Vậy nên Mã Tư Thiên tán thán rằng: “Thiên hạ minh đức, đều khởi nguồn từ Ngu Thuấn”.

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Qua muôn ngàn gọt giũa cuối cùng thành đại khí

Trong “Tam Tự Kinh” có nói: “Ngọc bất trác bất thành khí” ( Ngọc không đẽo gọt không thành vật quý ). Bị mài giũa là một quá trình thống khổ, cho nên phải kiên trì nhẫn nại mới có thể thành đại khí. Theo truyền thuyết, ngày xưa trong thành có xây một ngôi chùa rất lớn. Ngôi chùa trang nghiêm, cổ kính, mộc mạc, thanh tịnh chỉ thiếu mỗi bức tượng Phật để các thiện nam tín nữ bái lạy. Dân chúng tín tâm muốn biểu đạt sự kính ngưỡng của mình nên đã mời một thầy điêu khắc nổi danh bốn biển về tạc tượng.

Thầy điêu khắc cảm nhận được sự chân thành đó của dân chúng bèn tự mình lên tận núi cao chọn một tảng đá. Công sức khó nhọc bỏ ra không phụ lòng người, cuối cùng ông cũng tìm được một tảng đá lớn. Tảng đá quá lớn nên ông đành phải xẻ làm hai nửa. Thầy điêu khắc tùy ý chọn lấy một hòn đá trong đó, cầm đục lên và bắt đầu công việc. Trong quá trình chạm khắc, hòn đá này nhẫn nại không nổi. Nó nói với thầy điêu khắc: “Đau quá, Ông nhẹ tay một chút được không? Tôi quanh năm dầm mưa dãi nắng trên núi cao, trước nay chưa hề đau đớn như thế này. Ông chạm trổ từng nhát từng nhát một, thực sự có thể khiến tôi trở thành một pho tượng Phật sao?” Thầy điêu khắc nói: “Nhẫn nại là cả một quá trình, chỉ cần có nhận thức kiên định, tận cùng của đau khổ chính là sự đổi mới. Nếu nhà ngươi tin ta thì hãy tiếp tục nhẫn nại.” Hòn đá nghĩ hồi lâu, rồi nói với thầy điêu khắc:“Tôi nghe ông. Nhưng khi nào ông mới tạc xong?” Thầy điêu khắc bỏ cái đục trong tay xuống, nói với hòn đá: “Ta mới chỉ bắt đầu công việc. Nhà ngươi còn phải nhẫn nại ba mươi ngày nữa. Sau khi tạc xong nếu mọi người không vừa ý, còn phải sửa thêm. Nhưng nếu mọi người vừa ý, ngươi sẽ trở thành một pho tượng Phật”.

Hòn đá trầm mặc hồi lâu. Nó vừa muốn được tự hào trở thành một pho tượng Phật mà người người bái lạy, vừa thấy khó có thể chịu đựng được nỗi đau cùng cực bị chạm trổ này. Sau hai tiếng đồng hồ nó hét lên: “Đau chết tôi mất, đau chết tôi mất. Ông hãy dừng tay, đừng dùng cái đục chạm trổ tôi nữa. Tôi thực sự chịu không nổi mùi vị đau đớn này.” Thầy điêu khắc ngưng chạm trổ hòn đá mới khắc được vài nhát, chỉ đơn giản xẻ nó thành một phiến đá hình vuông, chêm dưới miếu đường. Sau đó ông lấy hòn đá khác để bắt đầu công việc.

Sau một hồi dao mài búa gõ, thầy điêu khắc tò mò hỏi hòn đá: “Nhà ngươi có thấy đau đớn khôn cùng không?” Hòn đá được lựa chọn lần thứ hai đáp: “Tôi và hòn đá lúc trước vốn là một, cảm giác đau đớn khôn cùng cũng giống nhau. Nhưng tôi không thể dễ dàng bỏ cuộc.” Thầy điêu khắc hỏi:“Sao nhà ngươi không yêu cầu ta nhẹ tay một chút khi chạm khắc?” Hòn đá đáp:“Nếu tôi yêu cầu ông nhẹ tay một chút, pho tượng Phật sẽ có những chỗ không thể chạm khắc tinh tế, sẽ bị chạm khắc lại từ đầu. Chi bằng ông làm đến nơi đến chốn, không phải lãng phí thời gian của mọi người.” Thầy điêu khắc nghe xong thầm khen ngợi tính cách kiên định của hòn đá thứ hai, bèn vui vẻ bắt tay vào công việc. Trải qua 30 ngày nhẫn nại, một pho tượng tuyệt đẹp cuối cùng cũng được chạm trổ thành công.

Không lâu sau, một pho tượng tôn nghiêm, hùng vĩ sừng sững dựng lên trước mặt mọi người. Mọi người ai nấy đều cung kính đặt pho tượng lên ban thờ, người đời ngợi ca, tôn kính. Ngày càng nhiều người nô nức kéo đến chùa, dòng người liên tục không ngớt. Một hôm hòn đá bị làm thành phiến đá nói với bức tượng Phật : “Sao ngươi lại được ở trên cao, được mọi người bái lạy? Còn ta hàng ngày phải bị ngàn người dẫm đạp, dẫm lên thân ta mà bái lạy ngươi?” Hòn đá được tạc thành pho tượng Phật mỉm cười đáp:“Đạo lý rất giản dị. Công sức để ngươi thành một phiến đá rất đơn giản, còn ta phải trải qua vô số lần chạm khắc mới thành tượng Phật.”

Nhìn thấu tháng năm mong manh, thấu hết muôn hình vạn trạng cõi nhân sinh, mọi việc trong thế gian cũng đều như vậy. Kỳ thực, sức nhẫn nại và ham muốn an nhàn chỉ khác biệt trong một niệm. Nếu lỡ mất cơ duyên nào đó, thì sẽ phải chịu đựng nỗi đau khổ đằng đẵng không tháng ngày; nếu kiên định niềm tin vào tương lai tương sáng của mình, dùng nghị lực ngoan cường nhẫn chịu khảo nghiệm của năm tháng, thì nhất định sẽ có một tương lai tươi đẹp.

Thứ Ba, 5 tháng 11, 2013

Chiếc dù màu đỏ

Với niềm tin bạn có thể thấy được những điều vô hình

Bên sườn đồi, một ngôi làng nhỏ đang phải gánh chịu nạn hạn hán kéo dài nhất từ trước đến nay. Đã qua mùa khô từ lâu mà không có lấy một giọt mưa. Mặt trời tỏa sức nóng như thiêu đốt vạn vật, đến những làn gió cũng phả vào người hơi nóng hừng hực. Mặt đất đã bắt đầu nứt nẻ, khiến bao cánh đồng lương thực và hoa màu héo khô.


Người dân trong làng buồn bã, lo âu trước dấu hiệu của một mùa thu họach thất bại. Họ lo sợ cuộc sống của mình rồi đây cũng sẽ bị đe dọa một khi không còn nước để dùng. Không còn cách nào hơn, mọi người thống nhất sẽ cùng nhau cầu nguyện với hy vọng Chúa Trời nghe thấu những lời cầu khẩn mà thương tình đổ mưa xuống.

Tối hôm đó, tất cả dân làng đến nhà thờ như đã hẹn. Vì ít khi được gặp mặt đông đủ nên mọi người tay bắt mặt mừng hỏi thăm nhau. Họ say sưa, mải mê trò chuyện đến mức dường như quên mất mục đích đến nhà thờ.

Vị cha xứ già lặng lẽ nhìn quanh. Sư hiện diện của ông không được mấy ai để ý. Bỗng ông chú ý đến một bé gái quỳ ngay hàng ghế đầu tiên. Cô bé đang cầu nguyện – bình thản, thánh thiện giữa đám đông ồn ào. Ngay cạnh cô bé lả một chiếc dù màu đỏ – chiếc dù duy nhất xuất hiện trong nhà thờ. Ông trìu mến ngắm nhìn khuôn mặt ngây thơ, đáng yêu nhưng tràn đầy niềm tin của cô bé, lòng xúc động vô cùng. Thiên thần không ở đâu xa, mà chính là đây.

Buổi cầu nguyện cuối cùng cũng diễn ra và kết thúc trong sự nôn nóng của phần đông những người tham dự. Khi họ đang vội vàng chuẩn bị trở về nhà thì lạ thay, một cơn mưa ào tới. Tất cả đều hò reo, vui mừng vì bao trông ngóng suốt thời gian qua cuối cùng đã trở thành hiện thực. Chợt mọi người lặng yên, bối rối nhường đường cho cô bé với khuôn mặt rạng ngời, cầm trên tay chiếc dù màu đỏ nhẹ nhàng buớc ra làn mưa.

Tất cả đều đến nhà thờ để cầu nguyện, nhưng chỉ có mỗi cô bé là tin vào những lời cầu nguyện của mình.

Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Mẫn Tử Khiên làm mẹ kế cảm động

Mẫn Tử Khiên là người nước Lỗ thời Xuân Thu (770TCN-476TCN), là học trò của đức Khổng Tử, rất nổi tiếng vì đức hạnh hơn người. Khổng Tử từng ngợi khen ông rằng: “Mẫn Tử Khiên, thật hiếu thảo lắm!”.

Quyển “Đệ tử Quy” của Khổng Tử là một cuốn sách giáo khoa truyền thống Trung Quốc, dạy trẻ em xưa về đạo đức và cách ứng xử


Mẹ Mẫn Tử Khiên chết sớm. Cha cậu đi bước nữa và sinh thêm được 2 người con trai. Cậu kính trọng và chăm sóc cha cùng người mẹ kế, nhưng mẹ kế không thương yêu, còn thường xuyên ngược đãi cậu. Mùa đông rét mướt, bà ta cho 2 người em trai cậu mặc áo bông dày ấm áp, còn cậu chỉ được mặc mỗi chiếc áo khoác làm bằng hoa lau vốn không cách nào giữ ấm được.

Một ngày đông nọ, cha Tử Khiên có việc đi ra ngoài, sai cậu kéo xe. Nhưng vì rét run, tay cậu không cầm nổi dây và để xe bị ngã. Cha cậu rất bực mình, trách mắng và lấy roi đánh cậu. Lúc ấy chiếc áo khoác bị rách, hoa lau bên trong bay ra, đến khi đó người cha mới biết rằng Tử Khiên đã bị mẹ kế ngược đãi.

Cha Tử Khiên quay về nhà, muốn đuổi người mẹ kế đi vì bà quá tàn nhẫn. Mẫn Tử Khiên quỳ xuống cầu xin cha tha thứ cho kế mẫu. Cậu bật khóc và nói: “Mẹ ở lại chỉ mình con chịu lạnh, mẹ đi rồi cả 3 đứa con đều sẽ bị rét lạnh”. Người cha vô cùng cảm động và theo lời thỉnh cầu của cậu. Người mẹ kế nghe cậu nói, hết sức hối hận và cảm động, thế là từ đó về sau thương yêu cậu như con ruột của mình.

Câu chuyện cổ về cậu bé Tử Khiên – một người con chí đạo chí hiếu, cũng đồng thời là tấm gương sáng về tấm lòng thiện tâm nhẫn nhục, lấy đức báo oán, đã mãi mãi lưu truyền hậu thế.

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

Một Hành Động Tốt, Hai Người Được Cứu



Sau khi xong việc, Quang quyết định ăn trưa tại một quán trà. Khi đến nơi làm việc sau bữa trưa, anh phát hiện ra là mình đã làm mất túi bạc.

Một doanh nhân tên Quang làm trong việc lĩnh vực nhượng quyền ở Thượng Hải, Trung Quốc vào thời Quan Tự cuối những năm 1800. Anh rất được ông chủ tôn trọng vì sự trung thực của mình. Một ngày nọ, ông chủ cử anh đến khu vực phía nam Thượng Hải để thu tiền trong một vài ngày trước Tết Đoan Ngọ ngày mùng 5 tháng 5. Anh rời nhà vào buổi sáng, thu được 1.800 nén bạc và cất chúng vào một chiếc túi nhỏ mang theo người. Đói và khát, anh đã ăn trưa tại một quán trà rồi nhanh chóng trở về chỗ làm.

Túi bạc bị mất


Khi về đến nơi, Quang chợt nhận ra chiếc túi da nhỏ với toàn bộ số tiền đã biến mất. Anh không nghĩ được chiếc túi có thể ở đâu. Ông chủ của anh đã rất tức giận và nghi ngờ rằng anh đã bỏ túi số tiền đó, vì vậy, ông đã la mắng anh và đe doạ rằng nếu anh không trả lại số bạc vào ngày hôm sau thì sẽ đưa anh đến đồn cảnh sát. Quang không biết làm gì hơn ngoài việc khóc thành tiếng.

Một người đàn ông tên Vũ, cũng kinh doanh trong lĩnh vực nhượng quyền. Bất chấp mọi nỗ lực, anh luôn gặp thất bại. Anh đã định lên thuyền về quê ngày hôm đó. Thật tình cờ là sau khi Quang rời khỏi quán trà, Vũ đã đến đúng quán đó để chờ thuyền.

Người đàn ông trung thực nhặt được túi bạc
Chiếc túi nhỏ trên sàn nhà đã vô tình lọt vào mắt Vũ; anh rất bất ngờ khi thấy có nhiều bạc trong đó. Ngay khi chuẩn bị cất số bạc vào túi, suy nghĩ này đã đeo đuổi lấy anh: “Nếu cất giữ toàn bộ số bạc này, mình sẽ sống một sống sung túc và thoải mái tại quê nhà, đồng thời mình sẽ thoát khỏi tất cả những khó khăn, rắc rối trong cuộc sống; tuy nhiên, số bạc này cần phải được trả về cho chính chủ của nó. Thật đáng buồn nếu như mình nghe tin có ai đó đánh mất địa vị trong xã hội hay thậm chí là cuộc sống của mình bởi anh ta làm mất số tiền này. Giàu hay nghèo là do số phận, và mình nên thuận theo điều đó. Vì hôm nay mình tìm thấy số tiền này nên mình sẽ chờ ở đây cho đến khi chủ nhân của số tiền này quay lại và trả lại nó”.

Lúc đó là buổi chiều và không có quá nhiều khách trong quán trà. Vũ quan sát tất cả mọi người bước vào quán, nhưng không ai trong số họ trông có vẻ lo lắng, giống với tâm trạng của người bị mất tiền. Vũ đang rất đói vì anh không có đủ tiền mua đồ ăn, nhưng anh vẫn tiếp tục quan sát những người bước vào quán. Dường như không có ai có vẻ như đang tìm kiếm gì đó. Vũ tiếp tục chờ chủ nhân của số bạc tại quán trà. Đã rất muộn rồi, tất cả khách đã về hết và quán trà cũng chuẩn bị đóng cửa. Đột nhiên, anh nhìn thấy một người đàn ông với dáng vẻ buồn rầu cùng hai người đàn ông lực lưỡng theo sau, bước vào quán trà.

Người đó chính là Quang, theo sau bởi hai người đàn ông lực lưỡng. Quang đã có thể thuyết phục ông chủ để cho anh đi tìm số tiền đã mất, nhưng ông chủ nghi ngờ rằng nếu ông ta để anh đi một mình, thì anh có thể nhân cơ hội này chạy trốn, vì vậy ông đã yêu cầu hai người đàn ông đi cùng.


Vũ đang đói bụng, nhưng anh vẫn chờ chủ nhân của túi bạc quay trở lại. Sau đó, Vũ thấy Quang bước vào quán trà, theo sau bởi hai người đàn ông lực lưỡng.

Túi bạc được trả lại

Vũ thận trọng quan sát rồi đi về phía họ và hỏi: “Anh bị mất cái gì à?” Quang miêu tả chiếc túi bị mất cho Vũ. Nghe xong Vũ mỉm cười và đáp: “Cuối cùng thì anh đã trở lại. Tôi ở đây chờ anh cũng khá lâu rồi.” Thấy Vũ nhặt được số tiền, Quang mừng rơi nước mắt. Quang nói: “Cảm ơn anh rất nhiều. Tôi chắc sẽ tự tử đêm nay nếu không phải là một người trung thực như anh nhặt được số tiền này”.

Hai người giới thiệu tên cho nhau và Quang đề nghị biếu Vũ 1/15 số tiền nhưng Vũ từ chối. Quang nài nỉ Vũ nhận 1/10 số tiền, nhưng Vũ tiếp tục từ chối. Quang đề nghị biếu toàn bộ, nhưng Jin cũng lại từ chối. Cuối cùng, Quang nói “Vậy cho phép tôi sáng mai mời anh một bữa được không?” Vũ đồng ý. Họ quyết định 10 giờ sáng mai gặp nhau tại một nhà hàng gần đó.

Một hành động tốt, hai người được cứu

Sáng hôm sau khi tới nơi, Vũ dường như rất vui mừng. Khi Quang chuẩn bị nói lời cảm ơn, Vũ đã ngắt lời và nói: “Tôi nên cảm ơn anh. Ngày hôm qua tôi đã định lên thuyền về quê, nhưng vì ở lại quán trà đó để chờ anh nên đã bị lỡ thuyền. Sáng nay, tôi được biết rằng chiếc thuyền đó bị lật trên sông Hoàng Phố và toàn bộ 23 hành khách đã bị chết đuối”.

Thật ngạc nhiên là một hành động tốt của Vũ đã cứu được hai người. Khi ông chủ của Quang biết chuyện, ông ngưỡng mộ lòng trung thực của Vũ và đã có một cuộc nói chuyện dài với anh. Sau đó ông quyết định tuyển Vũ vào làm kế toán và sắp xếp cho Vũ cưới con gái mình. Với sự giúp đỡ và hỗ trợ của ông chủ của Quang, Vũ đã trở nên giàu có.


Jin ở lại quán trà để chờ đợi chủ nhân của túi bạc quay trở lại. Kết quả là anh đã bị lỡ chiếc thuyền về quê. Sáng hôm sau anh phát hiện ra chiếc thuyền bị lật và toàn bộ hành khách đã bị chìm.

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

Có ai ở đời mãi đâu mà.... giận với hờn

Hỷ xả là cái đức rất cần thiết và quý báu cho cuộc sống hiện tại của chúng ta.

Muốn được vui, muốn được tươi đẹp, sống lâu thì chúng ta phải tu hạnh hỷ xả.

Người nào ôm lòng phiền hận thì đau khổ

Nếu chúng ta có tài vật dư dả nên vui vẻ xả, giúp cho những người bần cùng đói rách. Của cải do mồ hôi nước mắt mình tạo, mình cảm thấy đủ hay dư thì vui xả cho những người nghèo thiếu hay những người ít ỏi hơn. Đó là hỷ xả tài vật bên ngoài.

Tuy vậy cũng hơi khó làm, vì có nhiều người, kẻ khác thấy họ dư mà bản thân họ lại thấy thiếu. Có một đồng muốn hai đồng, có hai đồng muốn mười đồng, có mười đồng muốn ba mươi đồng, muốn cho đến ngày tắt thở mà vẫn thấy chưa đủ. Như vậy làm sao xả được? Cho nên muốn hỷ xả chúng ta phải học Phật.

Ảnh minh họa. 

Phật dạy ít muốn, biết đủ. Chúng ta biết đủ thì mới xả được, không biết đủ thì không thể nào xả được. Người không biết đủ giống như cái túi không đáy, bỏ vào bao nhiêu tuột hết bấy nhiêu, bỏ bao nhiêu cũng không đầy, do cái bệnh không biết đủ, như vậy làm sao mà xả?
Ví dụ mỗi ngày buổi trưa chúng ta ăn ba chén cơm là đủ no, dù có đồ ăn ngon, chúng ta cũng ăn ba chén, phần dư thì giúp cho người, hoặc cho vật. Dù đấy là phần dư của mình, nhưng cũng là một lối xả. Chớ nên ăn ba chén vừa no, thấy đồ ăn ngon, ăn thêm nữa, như vậy là phí phạm, vì lượng thức ăn chừng đó là đủ, ăn thêm là dư.

Đó là nói về cái ăn, còn bao nhiêu cái khác. Chẳng hạn như cái mặc, chúng ta có ba bộ đồ đủ để mặc, thêm bộ thứ tư là dư rồi nhưng có bộ thứ tư thấy chưa đủ, mua thêm bộ thứ năm cũng thấy chưa đủ nữa.

Như vậy chừng nào mới đủ để xả? Không biết đủ thì không bao giờ xả được. Muốn xả phải biết đủ, biết đủ mới xả được, của dư đem giúp người không một chút luyến tiếc. Đó là tâm hỷ xả, vui vẻ giúp người chớ không bị bắt buộc.

Hỷ xả tài vật tuy khó nhưng dễ hơn hỷ xả cố chấp phiền muộn ở tâm. Khi có người làm phiền mình thì gương mặt buồn hoặc nhăn nhó. Muốn hết phiền phải tập xả; xả này là tha thứ, là bỏ qua.

Phiền ở đây là phiền não và sân hận, hai thứ đó chất chứa trong lòng, mình phải buông xả nó đi. Người nào ôm lòng phiền hận thì đau khổ, đau khổ từ hiện tại cho đến mai kia, chớ không phải đau khổ trong hiện tại thôi.

Vì vậy, khi biết mình đang ôm lòng phiền hận người này kẻ khác thì phải vui vẻ bỏ, nghĩa là bao nhiêu cái phiền muộn đang chứa chấp trong lòng phải hỷ xả hết. Muốn xả của cải chúng ta phải biết đủ.

Muốn bỏ phiền hận phải làm sao?
Muốn bỏ phiền hận trong lòng, chúng ta phải thấy cuộc đời là vô thường, cái chết đang kề cận, ôm phiền hận làm gì.
Do nghĩ cái chết sắp đến nên chúng ta buông xả được phiền hận. Phiền hận chỉ làm khổ mình, khổ người, không lợi cho ai cả. Quán xét như vậy chúng ta buông hết, không buồn giận ai, lo tu cho tâm an ổn.

Chúng ta thấy cuộc đời như ảo mộng, ngày nay có mặt đây, ngày mai đã mất rồi. Sống trong tạm bợ mong manh, mình tạm bợ, người tạm bợ... Vậy tại sao không thương nhau, nâng đỡ nhau?

Nếu chúng ta biết mình là người bị kêu án tử hình và những người xung quanh cũng bị kêu án tử hình thì đâu có buồn giận nhau. Trong cuộc sống hằng ngày khi lẫn lộn chung chạ nhau, có dẫm lên nhau hay có làm phiền toái nhau cũng bỏ qua.

Phải nghĩ đến cái chết, chớ để tâm buồn giận. Nghĩ đến cái chết, chúng ta mới thấy cuộc đời là tạm bợ, sống không có cái gì bảo đảm. Vậy buồn giận nhau để làm gì? Hãy buông xả hết những gì chứa chấp trong lòng. Có ai ở đời mãi đâu mà giận với hờn.

Chúng ta đã học Phật, vậy có tập được hạnh buông xả chưa? Đi chùa cúng Phật có còn giận hờn bạn bè anh em không? Nếu ai còn phiền giận thì ngay bây giờ hãy nguyện đức Phật chứng minh xả hết, cho lòng trống rỗng không còn vướng bận việc gì.

Dù có buồn giận ai từ mười năm hay hai ba mươi năm, ngày nay dứt khoát phải xả. Phiền hận là rắn độc, dại gì chúng ta chứa rắn độc trong nhà. Nếu chứa rắn độc trong nhà thì sớm muộn gì cũng bị nó cắn.

Thế nên khi biết phiền não là rắn độc thì phải xả ngay, đuổi ra khỏi nhà, không dung chứa nó. Biết như vậy là tu đó. Phiền hận thì không vui, hết phiền hận, tâm hồn rỗng rang trống trải thì rất vui vẻ.

Muốn được vui vẻ, chúng ta phải tập hỷ xả những vật bên ngoài, hỷ xả những phiền hận trong lòng. Trong ngoài đều hỷ xả hết mới có cái vui chân thật. Sở dĩ Đức Phật Di Lặc cười hoài là vì Ngài hỷ xả, còn chúng ta buồn hoài là vì chúng ta cố chấp phiền hận.

Cố chấp phiền hận là nguyên nhân của đau khổ, của bệnh tật, rất xấu xa đê hèn, dứt khoát phải xả bỏ. Mọi người ai cũng muốn mình là người vui tươi, ai cũng muốn mình là người sung sướng, nhưng tại sao lại chứa cái nhân đau khổ?
Có phải tự mình mâu thuẫn với mình không? Khi nào giận ai, buồn ai là biết mình đang hại mình làm cho mình xấu xa, làm cho mình đau khổ, làm cho mình bệnh hoạn.

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

Ngụ ngôn: Cá và hồ ly

Một con hồ ly tiến vào hàng rào, sau vài ngày đã ăn hết số gà có bên trong. Vì vậy, nó đem vài con gà cuối cùng theo bên mình, chuẩn bị thay đường sinh nhai. Khi nó đi đến một bờ hồ nọ, con hồ ly ngược sát thành tính lại nảy sinh chủ ý với những con cá trong nước.

Hồ ly nhìn những con cá bơi qua bơi lại trong nước, vừa nuốt nước miếng, vừa giả vờ hát: “Cá ơi cá thật là đẹp, miệng cá màu hồng và vây cá màu trắng. Ta có một bí mật nhỏ, chỉ là không định nói cho cá.” Con cá nghe xong, nghĩ thầm: “Chúng ta mới không để ý đến ngươi, ngươi có bí mật thì để nó tan nát trong lòng là tốt rồi.” Hồ ly thấy cá không để ý nó, liền đổi lại lời bài hát rồi hát tiếp: “Cá ơi cá thật là đẹp, miệng cá màu hồng và vây cá màu trắng. Ăn hết rễ cây ngủ nước bùn, vì sao vẫn cứ chen chúc trong ao?” Phần lớn cá không động tâm, cũng tránh ra xa con hồ ly. Nhưng có mấy con cá nhỏ không tránh được cám dỗ, từ từ bơi sát vào bờ, muốn nghe xem hồ ly rốt cuộc muốn nói gì. Hồ ly thấy trò lừa gạt của mình đã có cửa, liền tiếp tục sửa soạn lời nói, đơn giản là khoa trương cuộc sống trên đất tốt thế nào: ăn uống chơi đùa, vừa sung sướng, vừa thú vị. Mấy con cá nhỏ bơi gần hơn một chút, nhưng còn do dự, chưa dám nhảy khỏi mặt nước. Hồ ly che giấu ánh hung quang trong mắt, giả bộ ôn nhu nói: “Nhảy lên đi, cá con bé nhỏ, sợ gì vậy?” Cá con nói: “Chúng tôi sợ gà, còn có hồ ly… ngươi nữa!” “Ta có gì đáng sợ hay sao?” Hồ ly giả bộ như đang tức giận: “Ta là đại biểu cao nhất cho lợi ích của loài cá, đi với ta, các ngươi sẽ an toàn hơn. Về phần mấy con gà kia, giờ ta sẽ khiến chúng nó chịu tội đền tội.” Nói xong liền lôi ra một con gà, nhổ sạch lông, tươi sống xé thành mảnh nhỏ, nuốt hết thịt, chỉ còn mấy khúc xương dính máu. Ăn gà xong, hồ ly quệt mồm nói: “Nhìn thấy rồi nhé, các ngươi nhảy ra là được ăn những khúc xương tươi này, cuộc sống cũng khá giả nha! Bổn vương sẽ liên tục đáp ứng nhu cầu cho càng nhiều cá hơn nữa.” Mấy con cá nhịn không được liền nhảy lên bờ. Vì mới ăn no, không thể tiêu thụ những chú cá con này. Vì vậy, nó đào một cái hố nhỏ ngay bên bờ ao, cho nước vào, ném vào trong mấy khối xương thừa. Sau đó xoay người khoác lác với bầy cá trong hồ: “Là ta, Hồ Ly Đại Vương, giải quyết vấn đề ăn uống cho đàn cá của ta.”

Từ đó về sau, dường như mỗi ngày đều có những con cá mới bị mắc lừa; có khi trong tay không có xương gà, hồ ly dứt khoát đung đưa xương cá lẫn cả máu thịt để đi lừa gạt. Nói dối che giấu chân tướng, tàn nhẫn thay thế nhân từ, dục vọng chiến thắng lý trí, ngày càng nhiều cá con trước ngã xuống, con sau tiến lên nhảy ra mặt nước, là để tìm kiếm “cuộc sống mới”. Có con cá bị hồ ly lấy lòng, chẳng biết xấu hổ giúp hồ ly tuyên truyền giả dối. Nhưng phần lớn cá vừa lên bờ, bị hồ ly bắt được liền ăn hết. Hồ ly mừng rỡ quên hết mọi chuyện, lời ca trong miệng cũng bị thay đổi: “Đắc ý, thật là đắc ý, tà ác có thể lấn át lương thiện. Kỳ lạ, kỳ lạ, thật là kỳ lạ, sớm thực hiện chủ nghĩa XX.”

Có một vài con cá chính nghĩa thật sự không nhìn tiếp được, hết lời khuyên bảo thân nhân bạn bè: “Ngàn vạn lần đừng tiến vào vũng nước đọng kia nữa, chúng ta có thức ăn của chúng ta; trời sinh chúng ta ăn rễ cây, ngủ nước bùn, bản tính của chúng ta là lương thiện đấy. Một khi chúng ta đánh mất điều cơ bản nhất là đạo đức, thì sự sống tương lai của chúng ta sẽ có mà như không, không còn ý nghĩa nào nữa. Lấy những con cá bị dụ dỗ kia làm ví dụ, chúng nuốt vào chính là những quả đắng do chính chúng gieo xuống, đau khổ biết bao! Chúng ta không thể vào tròng của hồ ly được.” Câu nói sau cùng bị hồ ly nghe thấy: “Tà giáo!” Hồ ly ở trên bờ đỏ mắt vừa nhảy vừa mắng, ngôn từ dơ bẩn không dứt bên tai: “Ngươi mới là tà giáo!” Mấy con cá trả lời một cách mỉa mai: “Ngươi âm mưu, tính kế giết chết biết bao nhiêu cá, ăn hết bao nhiêu cá, ngươi là thanh liêm sao?” “Ta cho chúng nó thức ăn ngon, sống thời gian thoải mái nhất, điểm này các ngươi có thể làm được sao?”, hồ ly lại dùng lời dối trá chống chế. “Chúng ta đương nhiên hướng về những ngày tháng tốt lành. Ngày trước chúng ta sinh sống rất thanh bình, hòa ái, tự do tự tại; chúng ta làm việc coi trọng chữ tín, giảng lương tâm; chúng ta kính trọng nhau, yêu thương nhau, êm đềm hòa bình, chẳng lẽ đó không phải là hạnh phúc sao? Chẳng lẽ tiêu chuẩn hạnh phúc của cá cũng phải do hồ ly quy định sao?” Hồ ly không phản bác được. Con cá nói tiếp: “Đừng ngụy trang nữa, chúng ta biết rõ ngươi sát hại bạn bè của chúng ta, khắp nơi kích động cừu hận, hành vi phạm tội này đã là tội lỗi chồng chất rồi, ghê tởm hơn nữa chính là ngươi mưu toan hủy diệt đạo đức của chúng ta, những con cá bị ngươi lừa gạt không phải đã bắt đầu lấy ăn chia máu thịt đồng bào làm vui hay sao? Cái đó và hồ ly tà ác có gì khác nhau? Chúng ta bất quá là khuyên bảo anh em bạn bè của chúng ta không nên làm những việc vi phạm lương tâm, liền bị ngươi chụp lên cái mũ “tà giáo”, nhìn xem bộ dạng tàn nhẫn của ngươi đi, ngươi có tư cách gì nói người khác là tà? Chẳng lẽ dưới gầm trời này có ai so với ngươi còn ác độc hơn sao?” Hồ ly thấy việc xấu của mình bại lộ, lập tức nguyên khí đại thương, mặt nó biến xanh, điên cuồng hướng về những con cá can đảm nói ra sự thật mà gào thét, cơn tức giận làm nó nghẹn thở, khiến nó ngã xuống mà chết…

Hết thảy lại khôi phục về yên lặng và hòa bình. Tất cả các con cá đều đã hiểu rõ, cuộc sống trong ao so với cuộc sống nhận ân huệ và lừa gạt của hồ ly thì ổn định và vui vẻ hơn rất nhiều!