Trang chu

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Vua Ai Công với Khổng Tử

Có một lần, vua Ai Công của nước Lỗ gặp được Khổng Tử. Sau khi tiếp đón Khổng Tử nồng hậu ...

Vua Ai Công hỏi Khổng Tử: "Ta nghe nói có người tính hay quên. Đến mức dọn nhà, quên mất vợ, có thật không?"

Khổng Tử đáp: "Có người quên như thế chưa có gì là lạ cả."

Khổng Tử nói tiếp: "Có người còn quên tệ hơn thế kia."

Ai Công hỏi: "Quên đến mức nào là tệ hơn?"

Khổng Tử đáp: "Quên đến cả bản thân mình thì tệ thật!"

Ai Công lại hỏi: "Thế nào mà đến cả cái thân mình mà mình còn quên?"

Khổng Tử từ tốn đáp: "Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ giàu có, của cải vô kể, làm đến thiên tử. Vậy mà xao lãng cơ đồ của tổ tiên. Hủy hoại cả phép nước đã dày công gây dựng trước đó. Tin dùng kẻ siểm nịnh, ghét bỏ người hiền tài, ngày ngày đắm say sắc dục ...đến nỗi ông Thang giết chết mất Kiệt!"

"Thế chẳng phải có thân mà quên cả thân là gì!"

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Thành ngữ Trung Hoa: Huyền lương thứ cổ - Học hành chăm chỉ và làm việc không mệt mỏi

Trong thời Chiến Quốc của lịch sử Trung Hoa, có một nhà quân sự là Tô Tần (380-284BC). Mặc dù gia cảnh rất nghèo khó, ông đã có khát vọng thành công từ khi rất trẻ. Ông học từ sáng sớm tới đêm khuya và nhiều khi cảm thấy rất mệt mỏi sau nhiều giờ học liên tiếp. Ông phát hiện ra mình có thể giữ tỉnh táo bằng cách dùng dùi đục đâm vào đùi. Sự đau đớn sẽ giúp ông tỉnh táo và tiếp tục học. Sau bao nhiêu cố gắng, Tô Tần đã nổi tiếng khắp nơi vì hiểu biết uyên bác của mình. Ông được phong tể tướng ở 6 quốc gia: Tề, Chu, Yên, Hàn, Triệu, Ngụy và nước Tần quê hương của ông.

Sau đó thành ngữ “Huyền lương thứ cổ” được người đời dùng để khích lệ học hành và làm việc chăm chỉ.

Một câu chuyện khác dẫn chúng ta tới triều đại nhà Hán. Đó là chuyện về một chàng trai trẻ tên là Tôn Tĩnh, người rất chăm chỉ. Ông ở nhà và có sở thích là đọc sách. Bởi vì ít khi ra ngoài nên khi ra chợ mọi người gọi ông là “ông đóng cửa”. Tôn Tĩnh học đến tận nửa đêm và thỉnh thoảng ngủ gật. Để giữ tỉnh táo, ông buộc dây thừng lên mái nhà và cột tóc của mình vào. Khi nào ngủ gật trên bàn học, sợ dây sẽ kéo tóc của ông. Sự đau đớn sẽ giúp ông tỉnh lại và tiếp tục học. Sau nhiều năm học hành chăm chỉ, ông cuối cùng trở thành một học giả uyên bác và nổi tiếng.


Hai câu chuyện này là ví dụ điển hình thường hay được nhắc đến của câu thành ngữ “Huyền lương thứ cổ” và đã cổ vũ tinh thần cho nhiều thế hệ khác nhau. Nếu bạn tận tâm tận lực vào công việc đang làm, thành công không còn xa nữa đâu!

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013

Không quan tâm đến điều hơn lẽ thiệt, danh lợi và quan tước

Trong sách “U song tiểu ký” có ghi lại một câu đối như thế này: “Sủng nhục bất kinh, khán đình tiền hoa khai hoa lạc; khứ lưu vô ý, vọng thiên không vân quyển vân thư”. (Tạm dịch: Không quan tâm điều hơn lẽ thiệt, ngắm trước sân hoa nở hoa tàn; tùy ý ra đi hay ở lại, nhìn khung trời mây tụ mây tan). Câu nói này có ý: người ta làm việc mà có thể xem vinh nhục cũng bình thường như đóa hoa kia sớm nở tối tàn, thì mới có thể giữ cho nội tâm bình lặng không kinh động; xem chức vị đến rồi đi biến đổi thất thường tựa như mây tụ mây tan, thì mới có thể giữ được tâm vô vi thanh tịnh. Một đôi câu đối chỉ có vài chữ, nhưng lại khắc sâu được nhân sinh quan và thái độ đối với vạn sự của tác giả: được thì không hoan hỉ, mất cũng không ưu phiền, vinh sủng hay chịu nhục cũng không kinh động, ra đi hay ở lại cũng không bận tâm. Như vậy mới có thể giữ tâm cảnh ôn hòa, thanh bạch tự nhiên.

Vị quan Tể tướng đồng thời là một nhà thơ tên Hướng Mẫn Trung thời vua Tống Chân Tông chính là một người quân tử như thế. Ông không bị ảnh hưởng bởi những thứ phú quý và danh lợi tầm thường. Vào thời Hoàng đế Chân Tông, Hướng Mẫn Trung được bổ nhiệm làm quan Hữu phó xạ. Ngày Hoàng đế hạ chiếu thư truyền đạt mệnh lệnh bổ nhiệm chức quan cho Hướng Mẫn Trung, Lý Tông Ngạc đang là Học sỹ Viện hàn lâm. Hoàng thượng nói với ông ta: “Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, chưa từng bổ nhiệm quan Phó xạ. Ngày hôm nay bổ nhiệm Mẫn Trung nhậm chức quan này, đây không phải là một sự bổ nhiệm tầm thường. Mẫn Trung chắc là rất vui mừng”. Lý Tông Ngạc trả lời: “Thần từ sáng sớm hôm nay đã vào trong cung rồi, cũng không biết đã tuyên bố chiếu thư, không hiểu giờ này Mẫn Trung như thế nào?”. Hoàng đế nói: “Trong nhà Mẫn Trung hôm nay khách đến chúc mừng nhất định là rất đông, khanh qua nhà ông ta xem thử, rồi ngày mai trở lại báo cáo cho Trẫm. Không nên nói ấy là chủ ý của Trẫm”. Tông Ngạc chờ Thừa tướng về nhà rồi mới tới bái kiến. Thừa tướng vừa mới từ biệt khách khứa xong, trước cửa phủ Thừa tướng yên lặng không có một người. Tông Ngạc và Hướng Mẫn Trung vốn là bạn thân, nên Tông Ngạc đi thẳng vào trong phủ gặp Thừa tướng. Sau đó chúc mừng nói: “Hôm nay nghe nói có chiếu thư bổ nhiệm Ngài, các quan sỹ đại phu đều rất vui, cả nước đón mừng”. Hướng Mẫn Trung chỉ ậm ừ cho qua chuyện. Tông Ngạc lại nói: “Từ khi đương kim Hoàng thượng lên ngôi tới nay chưa từng bổ nhiệm chức Phó xạ, đây không phải là sự bổ nhiệm tầm thường. Nếu không có đức cao vọng trọng, Hoàng thượng làm sao tin tưởng như vậy được?”. Hướng Mẫn Trung vẫn chỉ trả lời lấy lệ, rốt cuộc thực ra là chẳng nói gì. Tông Ngạc rời khỏi gian nhà chính, phái người đến phòng bếp, hỏi hôm nay trong phủ Thừa tướng có yến tiệc chiêu đãi khách khứa bà con gì hay không. Người trong bếp cũng nói trong phủ Thừa tướng hôm nay yên tĩnh không người.

Ngày hôm sau Tông Ngạc lên triều, Hoàng thượng hỏi: “Hôm qua có tới gặp Mẫn Trung không?”.

Tông Ngạc trả lời: “Bẩm đã gặp ông ấy rồi”.

Hoàng thượng lại hỏi “Tâm ý của Mẫn Trung ra sao?”.

Tông Ngạc đem những gì mình thấy báo cáo cả lại.

Vua cười nói: “Hướng Mẫn Trung thật sự là không quan tâm đến chuyện được mất, trong tâm không nghĩ gì đến quan tước”.

Từ cổ chí kim, phần lớn những chuyện thăng quan phát tài đều được người ta xem là chuyện đáng mừng, còn Hướng Mẫn Trung đối với việc thăng chức thì hoàn toàn bình thản. Có lẽ do ông là người vị tha, trong tâm không có quá nhiều ham muốn, nên mới có thể không bị danh lợi ràng buộc.

Bây giờ nhiều người cảm thấy sống rất mệt mỏi, không chịu nổi sức ép của cuộc sống. Rất nhiều người cũng suy nghĩ, tại sao xã hội không ngừng phát triển, mà gánh nặng của người ta lại càng nặng thêm, tinh thần ngày càng rỗng tuếch, tư tưởng thì nông nổi quá chừng. Thực ra, xã hội không ngừng phát triển, có vẻ là văn mình hơn xưa. Song chính sự “phát triển” của xã hội đã tạo thành sự tách biệt của con người với tự nhiên, con người đã hy sinh tự nhiên làm cái giá để trả cho cái sự “phát triển” ấy. Kết quả của việc này là người ta đã rơi vào vũng lầy thế tục không cách nào tự thoát ra được. Người ta hướng ngoại chạy theo thói đời tôn sùng vật chất, dần dần không còn biết phân biệt tốt xấu đúng sai nữa. Sự hấp dẫn của tiền bạc, những chiêu thuật tranh giành quyền lực, sự chìm nổi chốn quan trường khiến người ta hao tâm kiệt sức. Những chuyện tranh chấp thị phi, thành bại, được mất khiến người ta vui, buồn, lo, sợ. Một khi điều thèm muốn khó có thể thực hiện hoặc suy tính khó đem lại thành công, hy vọng tan vỡ thành ảo ảnh thì họ cảm thấy lạc lối, u uất, có người thậm chí vì vậy mà trả giá bằng cả mạng sống.

Phạm Trọng Yêm đời Bắc Tống trong tác phẩm “Nhạc Dương lâu ký” cũng trình bày đạo lý làm quan, làm người: “Không cảm thấy hài lòng bởi lợi ích vật chất, cũng không cảm thấy buồn phiền cho số phận không may. Địa vị cao ở nơi triều đình thì lo cho dân; đi xa khắp 4 phương trời thì lo cho vua. Tiến cũng lo mà thoái cũng lo, vậy thì lúc nào được vui đây? Điều đó chính là: “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ” vậy!”. Làm một sinh mệnh có tấm lòng bao la chứa cả thiên hạ, lấy trọng trách chăm lo cho thiên hạ đặt lên vai mình, người ấy quyết sẽ không chỉ vì lo cho quan tước và danh lợi bản thân mà suy tính thiệt hơn. Chính như hiện nay các đệ tử Pháp Luân Công đang bị ĐCSTQ đàn áp và bức hại tàn bạo. Họ là những người đi theo tiêu chuẩn “Chân Thiện Nhẫn” để làm người tốt, nhưng lại bị ĐCSTQ cưỡng chế vào lao giáo, bắt giam, thậm chí bị mổ cướp nội tạng trong khi họ đang còn sống. Họ mặc dù biết rõ những điều được mất của ích lợi cá nhân, nhưng vẫn thản nhiên đối diện với sinh tử, một lòng chỉ vì để cho con người thế gian vốn đang bị lừa dối và bịt mắt có thể hiểu được chân tướng sự thật, có được tương lai tốt đẹp.

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Sự bình yên

Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình yên. Nhiều họa sĩ đã cố công thể hiện tài năng của mình.

Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một. Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là một bức tranh bình yên thật hoàn hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đằng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang bình thản đậu trên tổ của mình... Bình yên thật sự.


"Ta chấm bức tranh này! - Nhà vua công bố - Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự yên tĩnh trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên".

Câu chuyện thành ngữ: "Tọa hoài bất loạn"

Ở nước Lỗ có một người nam sống độc thân trong một ngôi nhà. Hàng xóm của anh ta là một quả phụ, cũng sống trong nhà một mình. Vào một đêm mưa to gió lớn làm sập mất ngôi nhà, người quả phụ vội chạy đến nương nhờ nhà của anh kia, nhưng anh ta lại đóng cửa không cho vào. Người quả phụ đứng ngoài cửa sổ hỏi anh ta: “Sao anh không cho tôi vào?” Người nam đáp: “Tôi nghe nói rằng, nam nữ chưa quá 60 tuổi thì không thể ở cùng một chỗ; bây giờ cô còn trẻ, tôi cũng còn trẻ; tôi không thể để cho cô vào được.” Người phụ nữ nói tiếp: “Sao anh không thể giống Liễu Hạ Huệ, dùng thân mình sưởi ấm cho cô gái không kịp vào thành [tránh rét], cả nước không ai dám nói anh ấy làm bậy.” Người nam đáp lời: “Liễu Hạ Huệ có thể mở cửa, nhưng tôi thì không thể, vậy nên tôi muốn dùng cách của mình mà học tập Liễu Hạ Huệ”.

Đây là một truyện cổ được Mao Hanh triều Hán ghi chép lại trong “Kinh Thi-Tiểu Nhã-Hạng Bá”. Trong đó câu chuyện của Liễu Hạ Huệ đã đúc kết nên câu thành ngữ “Tọa hoài bất loạn”, dùng để hình dung người nam có hành vi cử chỉ đoan chính, mặc dù ở cùng người nữ nhưng không có hành vi khiếm nhã.

Liễu Hạ Huệ 

[Giải thích từ ngữ]
“Tọa hoài bất loạn”: ngồi mà trong lòng vẫn không loạn, ý chỉ người nam đoan chính, dù ở cạnh người nữ mà trong tâm không nảy sinh ý đồ xấu.

Liễu Hạ Huệ: tức Triển Cầm, người nước Lỗ, sống vào thời Xuân Thu. Bởi vì ông sống tại huyện Liễu Hạ, tên hiệu là Huệ, nên gọi là “Liễu Hạ Huệ”.

[Thảo luận]
1- Người nam kia vì sao không cho người quả phụ vào nhà? Nếu là bạn, bạn sẽ làm thế nào? Sau khi nghe người phụ nữ nhắc đến gương Liễu Hạ Huệ, người nam đã trả lời như thế nào? Anh ta có để cho người quả phụ vào không? Bạn nghĩ cách cư xử của người nam trong câu chuyện có đúng không? Hãy chia sẻ ý kiến của mình cùng với mọi người nhé!

2- Liễu Hạ Huệ có thể “tọa hoài bất loạn”, theo ý bạn nhờ đức tính gì trong tâm mới giúp anh ta làm được điều như vậy? Hãy chia sẻ ý kiến của mình cùng với mọi người nhé!

( Theo Chánh Kiến )

Chú thích thêm của bocau.net:

Liễu Hạ Huệ: người nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là một chính nhân quân tử. Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Hòa. Liễu Hạ Huệ một hôm dừng chân nghỉ qua đêm trước cổng thành, có một phụ nữ cũng đến trú chân. Trời lạnh người phụ nữ này bị cảm lạnh, rét cóng, Liễu Hạ Huệ liền cởi áo mình ra khoác lên người cô ta rồi ôm vào lòng để cô ta hết lạnh, mà trong lòng không hề có một chút tà tâm.

Lại có lần Liễu Hạ Huệ ngồi xe ngựa với phụ nữ, đi cả quãng đường dài mà mắt ông chỉ nhìn thẳng chứ không hề liếc ngang lần nào.

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013

Tây Du Ký - Tại sao Lão Rùa không thành chính quả?

Tây Du Ký là một tác phẩm văn học xuất sắc của Ngô Thừa Ân, miêu tả lại quá trình đi thỉnh kinh của bốn thầy trò Đường Tăng. Thật ra, cũng là quá trình tu luyện tâm tính, kiên định niềm tin để vượt qua 81 khổ nạn để thành chánh quả. Truyện có nhiều ấn dụ về tu luyện rất hay, cũng hàm chứa nhiều đạo lý. Trong truyện, có đoạn về khổ nạn thứ 81, khi bốn thầy trò Đường Tăng đã lấy được kinh và phải qua sông Thông Thiên để trở về Trung Thổ. Cá nhân tôi thấy đoạn này có ý nghĩa rất sâu sắc về nội hàm của tu luyện.



Nguyên là trước đây, khi bốn thầy trò Đường Tăng qua sông Thông Thiên, nhờ Lão Rùa lớn này chở qua. Khi đó, Lão Rùa có nhắn gửi là khi qua Tây Thiên, gặp Phật Tổ, nhớ hỏi dùm lão là: "Tôi có một điều thắc mắc là tu đã một ngàn ba trăm năm mà chưa đặng hóa hình người, tuy là biết nói và sống lâu, song chưa thoát kiếp! Xin thầy làm ơn bạch quá Phật Tổ, coi bao giờ tôi đặng thành người."

Khi Tam Tạng đến thỉnh kinh đã quên mất việc này, nên lúc trở về qua sông Thông Thiên, gặp lại Lão Rùa, nhờ Lão Rùa chở qua sông. Lúc giữa sông, Lão Rùa hỏi Đường Tăng có hỏi về việc của mình bao giờ tu thành hay không? Đường Tăng vì quên mất nên đã lặng thinh. Cuối cùng, cả bốn thầy trò bị Lão Rùa tức giận hất xuống sông cả. Kinh sách bị ướt, và không còn nguyên vặn. Đây chính là nạn thứ 81 mà thầy trò Đường Tăng phải vượt qua.

Nói về việc của Lão Rùa vì sao không tu thành chánh quả, thì đạo lý cũng rất giản dị. Chính là Lão tu lâu, nhưng không thực tu tâm, không có Pháp để theo. Tu luyện phải cải biến chính tâm tính của mình; vượt qua khổ nạn để bỏ đi chấp trước, ham muốn. Lão Rùa vì một chuyện nhỏ mà hất cả thầy trò Đường Tăng xuống sông làm ướt kinh, chứng tỏ tâm tính chưa sửa đổi. Vẫn là trong lòng cầu phước đức, không có chân thành tu luyện. Kỳ thực, làm việc tốt bao nhiêu, hay tu bao nhiêu năm nhưng tâm không cải biến thì cũng chỉ là hoài công mà thôi, và Lão Rùa cũng không có một con đường chân chính để theo, không biết nguyên lý của tu luyện. Tưởng rằng tu luyện chỉ dựa vào ý niệm, hay động tác để đắc Đạo thì quả thật không thể.

Việc này cũng đã nằm trong dự đoán 81 khổ nạn của Phật Tổ, vốn an bài cho thầy trò Đường Tăng. Tất cả mọi việc đều an bài. Tâm tính của Lão Rùa cũng không nằm ngoài sự an bài đó. Qua câu chuyện này, quan điểm của tác giả Ngô Thừa Ân về đạo lý tu luyện cũng rất sáng tỏ. Ngô Thừa Ân có bài thơ:

“Nhân tâm sinh nhất niệm,
Thiên địa tận giai tri,
Thiện ác nhược vô báo,
Càn khôn tất hữu tư!”


Diễn nghĩa:

“Khi một niệm khởi phát từ tâm con người,
Cả trời và đất đều biết,
Thiện và ác mà không có báo ứng,
Thì vũ trụ này thật quá ích kỷ!”


Không gì có thể che mắt Thần, chẳng qua sự ích kỷ của Lão Rùa làm Lão không thể tiến lên nữa mà thôi. Và một việc về văn hóa tu luyện cũng nói rằng, động vật không thể tu thành chánh quả, vì bản tính của chúng sẽ không đổi. Nếu tu thành thì sẽ thành ma. Trong Tây Du Ký cũng nói rõ về một đạo lý qua bài thơ của Đường Tăng ngâm trong Mộc Tiên Am:

“Thân người khó được,
Trung Thổ khó sinh,
Chính Pháp khó gặp,
Được cả ba điều,
May mắn lắm thay.”


Chính là chỉ ý chí tu luyện của ông, và sự may mắn của người tu luyện nào đắc được Chính Pháp. Đắc được thân người, và gặp được Chính Pháp là có thể tu luyện. Chính là cải biến tâm tính, vượt qua khổ nạn, kiên định niềm tin... giống như câu chuyện thỉnh kinh của bốn thầy trò. Tác phẩm Tây Du Ký quả là một tác phẩm mà văn hóa cổ xưa truyền lại cho nhân loại ngày nay, để có thể ôn cổ minh kim, sáng tỏ đạo lý.

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2013

Chính nghĩa thần minh chuộng, yêu ma thì kinh sợ!




"Thần linh ưa chuộng chính nghĩa, một người nếu có thể giữ vững chính nghĩa thì sẽ được thần linh đến phù hộ." (vince42/Flickr )

Lý Cát Phủ nói: "Thần linh ưa chuộng chính nghĩa, một người nếu có thể giữ vững chính nghĩa sẽ được thần linh tới phù hộ. Mà yêu ma quỷ quái sợ nhất là người chính nghĩa. Yêu ma quỷ quái không thể thắng được đức hạnh của người. Nhưng nếu mà một gia đình, một xã hội mà mất đi đức hạnh, ma quỷ sẽ hoành hành".

Dưới đây truyền thuyết kể lại
Dưới thời nhà Minh, có một thư sinh tên là Cảnh Thanh đang muốn đi tham dự thi khoa cử. Khi đến thôn Xuân Hoa, ông nghỉ lại một đêm tại một gia đình trong thôn.

Cô con gái trong nhà này đã bị yêu quái ám từ lâu. Hàng đêm yêu quái đều đến quấy nhiễu cô gái.

Tuy nhiên, đêm đó khi Cảnh Thanh ở lại trong nhà, lạ lùng thay, yêu quái lại không đến vì vậy cô gái đã có một đêm yên bình, thanh thản và hạnh phúc.

Ngày hôm sau, sau khi Thanh Cảnh rời đi, tối đó yêu quái lại tới. Cô gái hỏi con yêu quái : "Tại sao tối hôm qua ngươi lại không đến?" Trong lòng không có đề phòng, yêu quái nói thật: “Ta vì tránh tú tài Cảnh Thanh cho nên mới không tới!”

Sau khi yêu quái đi mất lúc bình minh, cô con gái kể với cha chuyện này. Người cha ngay lập tức đuổi theo Cảnh Thanh, thỉnh cầu chàng trở lại ở trong nhà của mình và kể cho chàng nghe sự thật. Ngay lập tức, Cảnh Thanh viết bốn chữ lớn: "Cảnh Thanh ở đây!" Người cha cầm tờ giấy quay về và dán nó ở cửa. Kể từ đó, yêu quái không bao giờ dám trở lại.

Cảnh Thanh là người chính trực chuộng chánh nghĩa. Cho đến ngày nay, ông vẫn được người đời truyền tụng và kính ngưỡng.


" ... yêu ma quỷ quái sợ nhất là người chính nghĩa. Yêu ma quỷ quái không thể thắng được đức hạnh của người. Nhưng nếu mà một gia đình, một xã hội mà mất đi đức hạnh, ma quỷ sẽ hoành hành " (Bức tranh Ma đói/ Bảo tàng Quốc gia Tokyo/Wikipedia)

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013

Mong làm điều phải

Nước Lỗ có người ở một mình một nhà. Bên láng giềng có người đàn bà góa cũng ở một mình một nhà.

Một đêm, mưa to, gió lớn, nhà người đàn bà đổ, người đàn bà sang xin ngủ nhờ nhà người láng giếng. Người láng giềng đóng cửa, không cho vào. Người đàn bà đứng trước cửa sổ, nói rằng:

- Ngươi sao bất nhân thế! Không cho ta vào ư?

Người láng giềng đáp:

- Ta nghe đàn ông, đàn bà sáu mươi tuổi trở lên mới ở chung được. Nay ngươi còn trẻ, mà ta cũng còn trẻ, cho nên ta không cho ngươi vào ngủ nhờ được.

Người đàn bà nói:

- Ngươi sao không làm như ông Liễu Hạ Huệ ủ người con gái ngồi vào lòng mà không tai tiếng gì?

- Ông Liễu Hạ Huệ thì thế được, ta đây thật chưa thế được. Ví ta cho ngươi vào mà ta không được như ông Liễu Hạ Huệ thì thà rằng, ta không cho ngươi vào, mà ta cũng giữ không tai tiếng gì được như ông Liễu Hạ Huệ. Thế chẳng là ta không làm theo như Liễu Hạ Huệ mà cũng được như Liễu Hạ Huệ ư?

Khổng Tử nghe chuyện, nói:

- Phải lắm! Kẻ muốn học ông Liễu Hạ Huệ chưa ai giống được như người nước Lỗ này: "Mong làm điều rất phải mà không bắt chước cách làm, rồi mà làm được, thế mới thật là khôn”.

Lã Thị Xuân Thu

LỜI BÀN:

Cái tình cảnh éo le khó xử thật!. Đêm khuya trời mưa gió, một người đàn ông trẻ tuổi có nên tiếp một người đàn bà trẻ tuổi vào nhà không? Không tiếp thì là bất nhân, vì không chịu cứu giúp một kẻ yếu đuối đang gặp lúc mưa gió khổ thân. Tiếp, thì là bất nghĩa và không khỏi cái tiếng trai gái có tình ý, mang cái tội tà dâm bất chính. Một đằng bất nhân, một đằng bất nghĩa, chọn đàng nào vì cái tình cảnh không sao giữ trọn vẹn được cả đôi đàng? Dễ chỉ có làm như ông Vân Trường đốt đuốc cầm suốt đêm chỗ trước cửa cho hai chị dâu ngủ, họa mới rõ là người nghĩa sĩ mà thôi. Như người nước Lỗ đây đành là bất nhân, cố giữ lấy cái “nghĩa” là theo lý tưởng rất nghiêm bên Á Đông ta là: “Nam nữ hữu biệt”.

(Theo “Cổ học tinh hoa” của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân – NXB Trẻ)

Chú thích:

Liễu Hạ Huệ: người nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là một chính nhân quân tử. Mạnh Tử khen ông là bậc thánh về Hòa. Liễu Hạ Huệ một hôm dừng chân nghỉ qua đêm trước cổng thành, có một phụ nữ cũng đến trú chân. Trời lạnh người phụ nữ này bị cảm lạnh, rét cóng, Liễu Hạ Huệ liền cởi áo mình ra khoác lên người cô ta rồi ôm vào lòng để cô ta hết lạnh, mà trong lòng không hề có một chút tà tâm.

Lại có lần Liễu Hạ Huệ ngồi xe ngựa với đàn bà, đi cả quãng đường dài mà mắt ông chỉ nhìn thẳng chứ không hề liếc ngang lần nào.

Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013

Hoa vương

Ngày xửa ngày xưa, có một vị minh quân, cai trị một quốc gia thanh bình trù phú. Mọi việc đều xuôi chèo mát mái,ngoại trừ một điều là dù tuổi đã cao, nhà vua hiền đức của chúng ta vẫn chưa có được hoàng nam nối dõi.
Một ngày đẹp trời đức vua cho yết bảng, truyền lệnh cho mời các đồng tử tuổi từ 7 đến 12 vào sân rồng cho ngài tuyển chọn người kế nghiệp. Các thần dân của đức vua trong số tuổi ấn định lũ lượt kéo nhau về kinh đăng kí. Bất kể gia tộc sang hèn,nghèo giàu mỗi cậu bé đều được nhận 1 hạt giống tí tẹo. Các thí simh phải đem hạt giống về tự tay gieo trồng và chăm bón. Đến bao giờ hạt giống nảy mầm, đâm chồi, ra nụ kết hoa hì sẽ mang đến hoàng cung dự thí.

Ngày khảo thí được ấn định vào đêm rằm tháng 8, chậu hoa nào được đức vua chấm giải nhất thì người gieo trồng nó sẽ được vào cung làm hoàng tử. Người sẽ kế vị đức vua sau này.

Cái ngày chờ đợi đó đã đến, vườn ngự uyển chất đầy các lẵng hoa do thỉu simh đem nộp,không chê vào đâu được,vì loài hoa nào cũng rực rỡ ngát hương. Nhưng đức vua và hOàng hậu xem chừng vẫn chưa chọn được thứ nào vừa mắt.

Cuối cùng 1 chú bé khoảng 8 tuổi,áo quần rách rưới nhưng mặt mũi dễ thương,xin được vào chầu đức vua của chú. Mọi người cười ồ khi thấy chú khư khư ôm 1 cái chậu bằng đất nung chứa đầy phân và rác bẩn. Vị thần dân tí hon này quỳ trước bệ rồng, nước mắt chảy quanh,sụt sịt nói:

- Muôn tâu,con đã làm hết sức mình,con đã chọn chiếc chậu lành lặn nhất,để vào đó thứ đất mịn nhất,trộn vào đất thứ phân đã hoại và tốt nhất...rồi mới đặt hạt giống của đức vua ban cho con vào đó,con đã phơi sương,ủ nắng và tưới nước cho nó...vậy mà nó không chịu nứt mầm nào cả.
Đức vua nghe xong,không giấu được sự xúc động,ôm chầm lấy cậu bé reo :

- Ôi ! Con chính là vọ hoanhg tử mà ta chờ đợi

Mọi người kinh ngạc lẫn bất bình. Đức vua vuốt râu mỉm cười giải thích :

- Tất cả các hạt giống tao cho thí sinh đều đã được hấp chín... Nó chỉ có thể nở hoa trung thực mà thôi...

Đưa tay chỉ chiếc chậu đầy đất bẩn của chú bé dân giả,đức vua tiếp :

- Đoá hoa rung thực ấy chỉ đâm chồi nảy lộc trông mỗi 1 chiếc chậu này. Con người đã gieo trồng được loại hoa ấy,nhất định sẽ là vị anh quân mà đất nước ta chờ đợi.

Đức vua đã không lầm trong sự lựa chọn ấy...

Hán Văn Đế: Vị minh quân trị vì đất nước bằng đạo đức và lòng nhân từ




Nhà Tần (221 - 206 trước Công nguyên), triều đại hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc, chỉ kéo dài trong vòng 15 năm sau đó bị thay thế bởi nhà Hán, kéo dài hơn 400 năm (206 trước Công nguyên - 220 sau Công nguyên).



Bài học lớn nhất mà Hoàng đế nhà Hán học được từ triều đại nhà Tần là quân đội có thể dùng để chinh phạt các quốc gia khác nhưng không thể dùng để cai trị. Đạo đức trị là cách duy nhất để duy trì đế chế.

Hệ thống chính trị, hệ thống pháp luật, thể chế và triết lý của Trung Quốc tất cả được hình thành vào thời nhà Hán vĩ đại. Triều đại nhà Hán chia làm hai giai đoạn: Tây Hán và Đông Hán.

Trong suốt thời Tây Hán, Trung Quốc có một thời gian dài thịnh vượng, và người Trung Quốc được gọi là người Hán. Kể từ đó, những từ "người Hán", "chữ Hán" và "trang phục nhà Hán" đã được sử dụng để mô tả mọi vật có nguồn gốc Trung Quốc.

Hán Văn Đế (202 - 157 trước Công nguyên) là vị hoàng đế thứ năm của nhà Hán. Ông là con trai của Lưu Bang, thường được gọi là Hoàng đế Hán Cao Tổ, người sáng lập ra triều đại nhà Hán.

Hán Văn Đế tại ngôi trị vì đất nước trong 23 năm. Trong thời gian đó, dân chúng được hưởng thái bình và thịnh vượng nhờ vị minh vương. Đó là bước ngoặt vàng son của nhà Hán với sự chuyển mình từ một quốc gia bị chiến tranh tàn phá sang quốc gia phát triển.

Trị quốc bằng đạo đức và lòng nhân từ
Sự khôn ngoan và lòng nhân từ của Hán Đế Vương được thể hiện ở nhiều phương diện.

Dưới đây là một vài ví dụ.

Hán Văn Đế đã bãi bỏ hình phạt xăm hình lên mặt và cắt mũi hoặc chân của kẻ phạm tội. Những hình thức trừng phạt này đã bị cấm tại Trung Quốc hơn 2.000 năm từ đó đến nay

Hán Văn Đế đã bãi bỏ hình phạt chu di tam tộc. Cha mẹ, anh chị em, hoặc con của những người bị kết án không còn bị trừng phạt vì những tội ác mà họ đã không gây ra.

Hán Văn Đế tin rằng luật lệ được hình thành là để xây dựng đất nước, ngăn chặn tội phạm và hướng dẫn mọi người cư xử đúng đắn. Nếu kẻ phạm tội bị kết án vì những tội lỗi mà mình gây ra theo quy định của pháp luật thì những người vô tội khác trong gia đình sẽ không bị liên đới hoặc không có lý do để lo sợ bị trừng phạt.

Hán Văn Đế tin rằng miễn là luật và các quy định công bằng, mọi người sẽ được đối xử một cách bình đẳng, và việc thực thi đúng các quy định sẽ khiến mọi người tin tưởng vào pháp luật.

Hán Văn Đế đã ra lệnh cho các gia đình quý tộc sinh sống ở thủ đô trở lại quê hương để những người nông dân thuê đất của họ không phải vận chuyển đồ cung cấp một quãng đường dài để phục vụ họ. Đồng thời, điều này cho phép giới quý tộc quản lý nông dân và đất đai trực tiếp và hiệu quả hơn.


Quan tâm chăm lo cho dân chúng
Như một nhà hiền triết đạo đức thời xưa, Hán Văn Đế quan tâm sâu sắc đến dân chúng.

Ông đã thiết lập hệ thống an sinh xã hội, theo đó miễn giảm thuế hoặc các khoản vay cho các góa phu, góa phụ, trẻ mồ côi, và người già. Ông thậm chí còn yêu cầu các quan lại cung cấp thực phẩm cho những người trên 80 tuổi, và quần áo, vải vóc cho những người trên 90.

Bản thân Hán Văn Đế sống một cuộc sống rất giản dị. Trong 23 năm trị vì, sau khi chuyển vào sống trong kinh thành, ông không tiêu tiền của quốc gia vào những thứ xa hoa. Những bộ quần áo ông thường mặc có chất lượng bình thường và không phải là loại áo tinh tế sang trọng mà các vị hoàng đế thường mặc. Đây là một tấm gương sáng cho người dân noi theo.

Hán Văn Đế đã ban hành sắc lệnh rằng phần mộ của ông sẽ không được dùng kim loại như vàng hay bạc trang trí. Thay vào đó là sử dụng đồ gốm khiêm tốn. Sắc lệnh này cũng quy định rằng ngôi mộ có kích thước vừa phải để tránh gia tăng gánh nặng lao động và đóng góp nguồn lực của dân chúng.

Hán Văn Đế đã bãi bỏ tội phỉ báng triều đình hay chỉ trích các vấn đề quốc sự. Nếu mọi thứ diễn ra không tốt, ông xem xét lại hành vi của mình trước tiên để khắc phục. Ông cũng tin rằng lắng nghe và chấp nhận những kiến nghị của dân chúng có thể mở ra cơ hội và cách thức cai trị đất nước mới, đồng thời có thể ngăn chặn sự bất mãn với triều đình.

Khi giải quyết các vấn đề liên quan đến bảo vệ vùng biên giới, Hán Văn Đế ra các quyết định về chiến tranh và ngoại giao trên cơ sở xem xét lợi ích tốt nhất cho dân chúng. Mặc dù Bắc Hung Nô (Hung) liên tục phá vỡ các thỏa thuận song phương và xâm lược Trung Quốc, Hán Văn Đế chỉ lệnh cho quân đội tăng cường phòng thủ. Ông không tuyên chiến với Hung Nô bởi không muốn mang lại khó khăn cho dân chúng.

Vào năm 165 trước Công nguyên, Hán Văn Đế lập nên hệ thống bổ nhiệm các chức quan một cách cạnh tranh thông qua thi cử. Trước năm 165 trước Công nguyên, các vị trí công bộc được các quan địa phương "đề cử" dựa vào những đánh giá chủ quan. Các kỳ thi được đưa vào với nỗ lực tạo tính khách quan cho hệ thống bổ nhiệm và hiện nay việc thi tuyển công chức như vậy đã phổ biến trên toàn thế giới.

Vào năm 159 trước Công nguyên, hạn hán xảy ra ở khắp Trung Quốc, theo sau là nạn châu chấu tàn phá. Hán Văn Đế đã thực hiện một loạt các biện pháp cứu giúp dân chúng: ông miễn cho các lãnh chúa không phải nộp cống, dỡ bỏ lệnh cấm khai thác ở núi và hồ, cắt giảm chi tiêu các mặt hàng sang trọng trong cung điện, giảm số lượng quân hầu trong cung, và mở kho thóc cho dân nghèo.

Coi trọng chữ Hiếu
Không chỉ là một vị vua nhân từ, Hán Văn Đế cũng thể hiện sự hiếu thảo to lớn và vâng lời me. Mẹ của ông nằm liệt giường trong ba năm và Hán Văn Đế thường thức suốt đêm để chăm sóc bà. Mỗi lần bà phải uống thuốc, ông đều kiên quyết thử thuốc đầu tiên để đảm bảo an toàn.

Trong thời gian tại vị, đạo đức và lòng khoan dung của Hán Văn Đế luôn được đánh giá cao, do đó xã hội được duy trì ổn định và người dân sống trong thái bình. Nền kinh tế được phục hồi sau hàng thập kỷ chiến tranh và quốc gia phát triển mạnh.

Tây Hán được coi là một trong những "xã hội hài hòa" hiếm có trong lịch sử Trung Quốc.

Thứ Hai, 16 tháng 9, 2013

Thành ngữ: "Sợ bóng sợ gió"

Trong «Thế thuyết tân ngữ» có một câu chuyện về “sợ bóng sợ gió” (“Ngô ngưu suyễn nguyệt”) như sau: Vị cận thần Mãn Phấn của Tấn Vũ Đế rất sợ lạnh, đặc biệt là cái lạnh rét thấu xương của gió đông. Có một lần gió thật to, vừa lúc anh ta vào cung tiếp kiến Vũ Đế, thấy cảnh thời tiết rét lạnh bên ngoài cửa sổ lưu ly, dù biết rõ cửa sổ lưu ly rất dày, sẽ không bị gió lùa vào, nhưng không khỏi có một cơn rùng mình. Vũ Đế thấy vậy liền cười anh ta, Mãn Phấn xấu hổ trả lời: “Thần giống như trâu nước Ngô, chỉ cần thấy ánh trăng là thở hồng hộc ngay”.

Trâu nước vốn sinh sống ở sông Trường Giang trong khu vực có nước sông Hoài chảy qua, loài trâu này sinh ra vốn sợ nóng, cho nên vào mùa hè thích ngâm mình trong dòng nước mát mẻ; nó chỉ cần thấy mặt trời thì toàn thân sẽ nóng lên, liên tục thở gấp; bởi vậy ngay cả đôi khi nhìn thấy ánh trăng trong đêm, còn tưởng lầm là mặt trời, thân nhiệt lại tăng cao, hoảng sợ đến nỗi thở gấp gáp.

Về sau câu thành ngữ “Sợ bóng sợ gió” (“Ngô ngưu suyễn nguyệt”, trâu nước Ngô nhìn thấy trăng mà thở hổn hển) từ đây mà hình thành, dùng để ví von con người khi nhìn thấy một cái gì đó tương tự thứ mà bản thân sợ hãi sẽ nảy sinh nỗi sợ hãi lớn trong lòng, cũng là dùng để chỉ thời tiết khốc liệt.

[Thảo luận]

1- Bạn phải chăng cũng từng có kinh nghiệm “sợ bóng sợ gió”? Hãy suy nghĩ một chút, làm sao chúng ta có thể vượt qua chướng ngại tâm lý này?

2- Có hai câu thành ngữ mang ý nghĩa tương tự “Sợ bóng sợ gió” (“Ngô ngưu suyễn nguyệt”) là: “có tật giật mình” (“Đàm hổ sắc biến”, hễ nhìn thấy hổ là biến sắc ngay), “chim sợ cành cong” (“Kính cung chi điểu”, chim thấy cành cong cũng sợ là cây cung), bạn có biết câu chuyện sinh thành hai câu thành ngữ kia không? Nếu biết hãy chia sẻ với mọi người nhé!

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Túi khôn của người xưa



Tô Đông Pha là một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Tống (960-1279), ông rất quan tâm đến Phật giáo. Một ngày nọ, trong khi nghiên cứu kinh điển, ông cảm thấy rằng ông đã tỉnh thức và không có tư tưởng mông lung trong đầu óc. Cao hứng, ông đã viết một bài thơ nói rằng ông vững chắc như một tảng đá, không thể bị lay chuyển bởi bất kỳ ‘bát phong’, (tám ngọn gió) – tám điều cám dỗ: được, mất, vu khống, tâng bốc, khen, chê, sợ hãi hay vui sướng.

Ngay sau đó, ông đã gửi một sứ giả mang bài thơ cho người bạn của mình, một nhà sư sống ở phía bên kia sông, bởi vì ông muốn biết ngưòi bạn nghĩ gì. Nhà sư đã phê bình bài thơ là “ngớ ngẩn” và sau đó gũi trả lại.

Nhà thơ giận dữ và lấy thuyền đi gặp nhà sư. Khi đến bến, nhà thi sĩ đợi nhà sư.

Ông chất vấn vị tu sĩ: “Tại sao sư lại nói rằng bài thơ của tôi là “ngớ ngẩn”?

Nhà sư mỉm cười và nói: “Trong bài thơ của ông bạn, ông nói rằng ông sẽ không bị lay chuyển bởi các thứ được, mất, vu khống, tâng bốc, khen, chê, sợ hãi hay vui sướng. Tại sao bạn nổi giận chỉ vì một từ?

Chú thích:

-Theo truyền tụng, Tô Đông Pha nhà thơ nổi tiếng đời nhà Tống, được cộng đồng Trung hoa khen ngợi là một thi sĩ rất tao nhả, tuyệt không vướng chút bụi trần, được tặng cho cái danh hiệu “bát phong truy bất động” (*). Bản dịch tiếng Pháp của Đại kỷ nguyên tiếng Pháp La Grande Epoque về câu chuyện Tô Đông Pha có thay đổi đôi chút cho dễ hiểu đối với độc gỉa phương tây, cần truy cứu lại bản Hán văn.

-(*) Bát phong truy bất động = tám ngọn gió không lay chuyển được.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Ích Kỷ Có Thể Sẽ Không Có Chỗ Trong Tiến Hóa


Các bạn chắc đã từng nghe những câu như "thân ai người lấy lo" hay "người chẳng vì mình trời chu đất diệt". Nhưng một nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí "Nature Communication" khiến người ta phải nhìn nhận lại về những câu nói này.

Sử dụng những máy tính mạnh mẽ chạy hàng trăm và hàng nghìn trường hợp giả lập, các nhà khoa học tại đại học bang Michigan phát hiện ra rằng sự ích kỷ sẽ không thể tồn tại trong quá trình tiến hóa.

Trong một công bố, giáo sư Christoph Adami, người đứng đầu nghiên cứu trên cho biết các cá thể ích kỷ có thể vượt lên trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng chúng không phù hợp cho sự tiến hóa, nghĩa là về lâu dài, những người ích kỷ sẽ bị đào thải.

Điều này hoàn toàn trái ngược với một nghiên cứu trước đó. Một nghiên cứu vào năm 2012 từng cho rằng người ích kỷ sẽ có nhiều khả năng đánh bại những người có tinh thần hợp tác. Nghĩa là nếu ích kỷ, bạn sẽ thành công trong cuộc sống.

Nhưng theo nghiên cứu mới nhất này, những người ích kỷ chỉ có thể làm vậy nếu biết rõ thông tin về đối phương, và thậm chí khi không ai có tinh thần hợp tác, người ích kỷ sẽ phải cân nhắc lại phương pháp quyết định vấn đề của mình, trở nên hợp tác hơn, và vì thế, sẽ không còn cảnh "thân ai người nấy lo" nữa.

Quả là tin tốt cho nhân loại! Những người vì thành công mà dẫm đạp lên kẻ khác cuối cùng rồi sẽ biến mất, bởi vì chúng ta học được một điều rằng, chúng ta phải đoàn kết để tồn tại.

Có vẻ như các nhà khoa học còn cho rằng quy luật này không chỉ áp dụng cho con người. Họ đang tính đến việc thử nghiệm lý thuyết này trên các tế bào nấm men.

Vậy các bạn nghĩ gì về điều này? Liệu tính ích kỷ có thể giúp bạn thành công về lâu dài được không? Hay nghiên cứu này là đúng? Chúng ta có nên vứt bỏ tính ích kỷ và chung tay hợp tác không? Hãy cho chúng tôi biết suy nghĩ của bạn. Đừng quên like và subscribe cho chương trình.

Nhất cử nhất niệm Thần đều biết – Thiện ác hữu báo

Cổ ngữ có câu rằng: “Nhân sinh nhất niệm, thiên địa tận giai tri, thiện ác nhược vô báo, càn khôn ắt hữu tư.” (Con người sinh một niệm, thiên địa đều biết tường tận. Nếu không có quả báo thiện ác, càn khôn ắt có tư tâm) Nhằm nói rõ cho con người biết cái lý thiện ác hữu báo, như hình với bóng, thiên lý khó có thể dối gạt, Thần linh giám sát thiện ác mọi lúc mọi nơi. Có người bởi một niệm thành khẩn lương thiện, liền được Thần âm thầm ban phúc; có người vì một niệm tà ác, liền bị Trời trách phạt ngay trước mắt. Kỳ thực, thiện ác chỉ cách biệt ở tâm niệm. Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa Nho giáo, Thích giáo, Đạo giáo cả ba đều lưu truyền lại kinh thư, điển tích về nhân quả có thể kiểm chứng. Bậc thánh hiền thời xưa đều coi không lừa dối là đức hạnh chủ yếu, quân tử kính sợ sự giám sát vô hình của Trời đất và người khác, chỉ sợ thiện tâm không kiên định, trong phòng tối làm chuyện thất đức mà mang tội với Trời, dẫn đến không còn đường khẩn cầu, nên vô cùng cẩn thận giữ gìn sự trong sạch ngay cả khi chỉ có một mình.

Nhặt được vàng chẳng giấu, tích thiện để phúc

Vào năm Gia Tĩnh nhà Minh (1522-1566), tại huyện Ngô Giang tỉnh Giang Tô có một người tên là Thi Phục, hai vợ chồng có hai chiếc khung cửi dệt lụa, [họ] dựa vào nuôi tằm dệt lụa mưu sinh. Một hôm Thi Phục bán lụa trở về, giữa đường nhặt được một túi bạc nhỏ, có khoảng hơn 62 lạng, bèn nghĩ: “Số bạc này nếu là của người làm ăn ít vốn đánh rơi, cả nhà họ sẽ không có nguồn sống, thậm chí còn khiến người mất, nhà tan”. Nên ông đứng ở chỗ nhặt được bạc đợi người chủ túi bạc tới tìm tại, nhịn đói nhịn khát đợi cả nửa ngày trời mới thấy người mất bạc vội vàng tới tìm, hóa ra là một vị hậu sinh mất của. Thi Phục hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện rồi trả lại bạc. Vị hậu sinh vô cùng cảm tạ, muốn lấy một nửa số bạc hậu tạ Thi Phục, Thi Phục không nhận, người kia bèn mua trái cây cho Thi Phục, mời ông dùng bữa, Thi Phục lần lượt từ chối, cũng không để lại tên tuổi mà rời đi. Thi Phục về đến nhà, kể chuyện với vợ, vợ ông nói rằng: “Ông làm thật tốt quá!” Hai vợ chồng ông không vì nhặt được bạc mà vui, ngược lại lại thấy an tâm khi trả lại bạc.

Sau đó, Thi Phục hàng năm nuôi tằm đều thu được lãi lớn. Có năm nuôi tằm, Thi Phục không tìm được nơi mua lá dâu, ông vô cùng lo lắng, liền góp vốn chung thuyền với gần mười nhà khác qua sông tìm mua lá dâu. Trời đã lờ mờ tối mà không kịp qua sông, họ bèn neo thuyền tại một nhánh sông, chuẩn bị cơm tối. Thi Phục lên bờ tìm lửa lại gặp ngay nhà người hậu sinh năm ấy mất bạc, vị hậu sinh tên là Chu Ân, hai người nói chuyện rất tâm đầu ý hợp. Thi Phục nói: “Do thiếu lá dâu tằm, nên ta phải qua núi Động Đình mua.” Chu Ân nói: “Trong vườn nhà đệ cây dâu không chỉ tăng thêm một hai cây, đến giờ không những đủ dùng cho gia đình mà còn dư ra rất nhiều, vừa hay đủ dùng cho huynh. Những lá dâu này cứ như là vì huynh mà mọc ra vậy, phải chăng là sự an bài?” Thi Phục đáp rằng: “Như hôm nay chúng ta gặp nhau, cũng là an bài.” Hai người bèn kết tình huynh đệ, sau đó hai nhà hẹn ước chuyện hôn sự. Hai vợ chồng Chu Ân chuẩn bị cơm canh khoản đãi ân nhân, còn định thịt gà, Thi Phục bèn ngăn vợ chồng Chu Ân lại mà  rằng: “Cơm nước như vậy tôi đã vô cùng cảm tạ rồi, hà tất phải sát sinh!” Chu Ân hạ một cánh cửa xuống, dùng ghế dài kê thành cái sập cho Thi Phục nghỉ ngơi. Nửa đêm, chú gà đột nhiên gáy ầm ĩ, Thi Phục nghe tiếng vội vàng trở dậy ra ngoài xem nó bị làm sao. Ngay lúc đó, mới xuống khỏi cái sập, vừa bước được ba bốn bước, chỉ nghe thấy đột nhiên có tiếng động lớn như trời long đất lở, không biết có thứ gì rơi xuống cái sập. Chu Ân nghe tiếng vội chạy qua đốt lửa soi đường, thì thấy cánh cửa nát vụn, cái ghế dài đã đổ, thất kinh mà rằng: “Hóa ra có cái trục xe gác ở bên trên, không biết sao lại rơi xuống được? Đại ca mới đầu không cho giết gà, ai nghĩ rằng con gà báo ân, cứu được tính mệnh của huynh.” Ngày hôm sau, Chu Ân đi thuyền chở lá dâu về nhà Thi Phục, sau khi quay trở về mới biết rằng những người hôm qua qua sông mua lá dâu đều gặp sóng lớn lật thuyền, gần mười người đều gặp nạn, chỉ có một người được cứu trở về báo tin. Thi Phục nói với Chu Ân: “Nếu không gặp hiền đệ và lưu lại, giờ này chắc ta cũng gặp nạn rồi.” Chu Ân đáp rằng: “Đây đều là phúc báo cho sự lương thiện của đại ca lúc ngày thường, đâu có liên can gì đến đệ!”

Vợ chồng Thi Phục từ đó ngày càng vui vẻ hành thiện, phàm là việc tốt mà bản thân có thể làm được, đều dốc lòng thực hiện. Bên cạnh có người hàng xóm giàu có, rất tính toán, cũng chính vì chỉ biết “truy cầu lợi”, cho nên về sau thua lỗ triền miên hết năm nay qua năm khác. Còn Thi Phục nhân hậu, không đầy mười năm đã có cơ nghiệp trị giá nghìn vàng, giàu có nhất vùng. Sau này con cái đầy nhà, lại ngoan hiền hiếu thuận. Trong một loạt các sự việc “trùng hợp” liên tiếp của Thi Phục, đều không phải vô duyên vô cớ mà thành, dù cho có gặp những chuyện không thuận lợi, cũng gặp hung hóa cát, dần dần biến chuyển tốt lên; không chỉ vậy, còn mang tới rất nhiều may mắn cho con cháu đời sau. Thi Phục vì hành thiện mà liên tục được phúc báo, gặp hung hóa cát, cuối cùng tiền tài như nước, có câu thơ rằng: “Lục kim hoàn thủ sự tuy vi, Cảm đức thiên tâm tảo giám tri. Tòng lai âm chất năng hồi phúc, Cử niệm tu tri hữu quỷ thần.”(Trả lại vàng chuyện tuy nhỏ, sớm đã cảm động tới trời xanh, trước nay âm đức đều được phúc báo, nhất cử nhất niệm quỷ thần đều biết.)

Hành ác giảm lộc, hướng thiện tiêu tai

Những năm Gia Tĩnh triều Minh, tại huyện Như Cao tỉnh Giang Tô có người tên Trần Quân, nhậm chức quan giáo dưỡng tại trường học huyện Vọng Giang, tỉnh An Huy (tức giáo thụ). Vào năm ông 39 tuổi, tối ngày 11 tháng 06 năm đó, trong giấc mơ ông đi tới miếu thờ Địa Tạng Vương bên ngoài cổng thành phía Nam huyện Như Cao, có một vị quan mặc áo đen, dẫn ông vào trong đại điện. Ông nhìn thấy trên điện khói hương nghi ngút, hành lang che mưa đứng đầy nha dịch, xếp hàng rất uy nghiêm.

Trần Quân phủ phục dưới thềm. Đột nhiên nghe thấy tiếng một vị bồ tát tuyên cáo rằng: “Đời ông cha nhà ngươi đều trung hậu, đặc biệt là mẫu thân ngươi trinh thiết trong sạch, hiếu thuận phụ mẫu, kính lễ Thần Phật. Do hành thiện như vậy nên Thần linh vốn định bảo hộ nhà ngươi có thể đỗ Cống sĩ trong khóa thi Minh Kinh; hơn nữa trong số mệnh ngươi còn có một lần đậu đầu bảng, nhưng do ngươi ngày thường làm nhiều việc ác, không hề hành thiện, sớm đã bị Thần linh tước bỏ ân huệ. Sau khi qua 40 tuổi, ngươi sẽ dần dần phải gánh chịu báo ứng cho những tội ác mà ngươi gây nên. Điều không thể tha thứ nhất là: cách đây không lâu có người đưa cho ngươi một bộ sách hướng thiện, ngươi không những không tôn kính tin theo, mà còn giấu sách đi không chuyển cho người được tặng. Ngăn trở con đường anh ta hành thiện, tội này vô cùng nghiêm trọng. Ngươi sẽ phải chết thảm vào tháng 08, không thể miễn tội!” Trần Quân vô cùng sợ hãi, choàng tỉnh giấc. Nhớ lại năm ngoái y tham gia ứng thí cuộc thi hương tại Kim Lăng, có con trai của Hoàng Vinh Tăng, quan giáo dưỡng huyện Tuyên Thành tỉnh An Huy từng đưa cho ông một bộ sách hướng thiện, nhờ ông chuyển cho hai thí sinh ở cùng phòng. Do thời gian thi cử bận rộn, gấp rút, nên ông không kịp đưa lại, mà mang về huyện Vọng Giang để trong hòm sách. Ông đã quên chuyện này rất lâu rồi, giờ mới nhớ ra, nhưng đã không thể làm được gì khác. Nhưng câu chuyện trong mơ hư hư thực thực, ông không dám tin chắc, trong lòng bán tín bán nghi. Sáng sớm ngày 16 tháng 08 đột nhiên chân tay Trần Quân lạnh ngắt, tinh thần hỗn hoạn, mồ hôi đổ như mưa, trong lần hôn mê cuối cùng, ông cũng đã tin giấc mơ ngày trước không phải là giả.

Do vậy Trần Quân chuyển niệm nghĩ rằng: Tội ác của mình tuy nặng, hối cải cũng có thể miễn tai họa, vừa nghĩ như vậy, trong lòng ông thấy vô cùng tỉnh táo. Nên ông nghiêm túc cầm bút viết một hơi những đoạn tản văn, đau khổ tự trách bản thân, thề rằng sẽ sữa chữa những lỗi lầm trước kia; và thề nguyện sẽ chuyển lại cuốn sách hướng thiện về nhân quả báo ứng, xin các vị Thần linh minh xét. Ngay đêm đó, ông liền mơ thấy một vị thần dẫn ông tới trước một cung điện lớn. Những vị Thần linh đợi ngoài cửa bước vào, dường như thay ông biểu đạt sự ăn năn, hối lỗi, một lúc sau các vị thần ra ngoài, cho phép ông ra về, ông dường như được thoát khỏi tội chết vậy và dặn dò ông rằng: “Phải kiên định thực hiện lời nguyện ước, thận trọng hành sự, không được trễ nải, lơ là!” Sáng sớm hôm sau Trần Quân tỉnh giấc, tinh thần đột nhiên sảng khoái, cơ thể bệnh tật dần dần hồi phục. Từ đó về sau ông khuyên mọi người xung quanh nên hành thiện, cố gắng hết sức phổ truyền sách hướng thiện và kể về nguyên lý nhân quả báo ứng.

Lừa tiền hại mệnh, sống vẫn gặp địa ngục

Những năm Thuận Trị triều Thanh (1644-1661), tỉnh Giang Tây có người tên Ngô Trạm Thất làm nghề bán vải. Tính y tham lam xảo quyệt, lòng dạ khó đoán. Khi bán vải y thường hay bày vải đẹp làm mẫu, tranh thủ sự tín nhiệm của khách hàng trước, chỉ cần khách hàng chọn được vải, y liền dùng hàng kém chất lượng thay thế hàng tốt, khiến khách hàng mua phải vải xấu. Vải đã bán xong mà mẫu vẫn còn, y hoán đổi rất tài tình.
Có vị thương gia Tây Dương cử một người bạn cùng nghề đi mua vải, bị Ngô Trạm Thất giở trò, mua hàng xấu về. Vị thương gia trách mắng bạn mình, người bạn rất tức giận nói rằng: “Vậy thì đích thân ông đi xem, cũng chẳng tránh được bị lừa!” Vị thương gia nói: “Đâu có đạo lý như vậy? Nếu lần này đi mua không được hàng thật, tôi quyết không đến tìm gặp ông.” Ngày hôm sau, vị thương gia đích thân ra đi. Ông vừa tìm đã thấy mẫu vải ưng ý trong kho hàng của Ngô Trạm Thất, vị khách bèn ngồi xổm trên cuộn vải, khiến Ngô Trạm Thất không thể tráo đổi. Ngô Trạm Thất thấy vậy vô cùng lo lắng, bèn bày mưu, vội vàng ra khỏi quầy chào đón, quần áo chỉnh tề, cung kính hành lễ chào vị thương gia như chào một người bạn cũ. Vị khách bất đắc dĩ đành phải vội vàng đứng lên đáp lễ, rồi lại nhanh chóng ngồi xổm trên cuộn vải. Nhưng nhằm vào lúc sơ hở này, Ngô Trạm Thất đã ngầm sai người đổi cuộn vải đó. Vị thương gia không phát hiện ra, trả xong tiền, liền vội vàng trở về nhà. Gặp bạn ông ngay lập tức mang vải ra cho bạn xem. Người bạn lấy vải ra xem, kiểm tra kỹ càng, hóa ra vẫn là loại vải thô vô cùng kém chất lượng, mục nát, mỏng tới mức không thể dùng được. Người bạn mang ra so với cuộn vải lần trước thì không có chút khác biệt. Người bạn trách vị thương gia: “Ông đích thân đi mua, sao lại thế này?” Vị thương gia mua phải vải xấu đã rất phiền lòng, lại nghe bạn khiển trách; ông nhớ tới lời nói cao ngạo trước đây mà tự lòng mình thấy vừa xấu hổ, vừa giận dữ liền treo cổ tự vẫn.

Ngô Trạm Thất âm mưu quỷ quyệt, chỉ mưu tính lợi riêng, chỉ thấy cái lợi trước mắt. Đến những năm Thiên Khải, trong một chuyến đi y mắc trọng bệnh, nằm ở nhà trọ thường mơ thấy những con quỷ đuổi bắt y mang đi hành hình, phải chịu đựng đủ mọi hình phạt lao tù. Cho nên thường hay phát ra tiếng rên rỉ ai oán khủng khiếp, ngày đêm không dứt. Y từng nằm trên chiếu hét lớn: “Cứu ta với! Cứu ta với! Chúng bắt ta trói trên giường lửa rồi!” Mọi người xung quanh nghe mà rụng rời chân tay, thấy sau lưng y quả nhiên xuất hiện một vệt màu đỏ như bị thép nóng nung. Y còn lớn tiếng kêu gào: “Ôi trời ơi! Sao lại dùng móc sắt móc lưng của ta mà cân thế này!” Mọi người càng cảm thấy kỳ dị, chỉ biết lần theo tiếng kêu của y mà xem xương sống lưng, thấy có chút sưng đỏ, dường như quả thực có người đang dùng móc cân y. Y không ngừng kêu lên những cực hình đau đớn trong ngục, quả thực như sống trong địa ngục vậy, chịu đau đớn trong vài ngày liên tiếp y mới tắt thở. Kỳ thực bất kể hành vi độc ác của con người có gian ngoan, xảo quyệt và được che giấu kỹ như thế nào, cũng đều đã gieo quả ác, báo ứng chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

Giấu bạc bị sét đánh, báo ứng phân minh

Thời nhà Thanh có một bà lão ở góa, thêu thùa kiếm sống nuôi đứa con trai. Người con lớn lên, làm việc tại một cửa hàng đổi tiền nên lương bổng cũng đủ phụng dưỡng mẹ già. Nhưng bà lão vẫn không ngừng thêu thùa, nên cũng dư dả và tích cóp được mười mấy đồng bạc, bà định chuẩn bị tiền cho con trai cưới vợ. Căn nhà nghèo nhỏ hẹp, chỉ cách hàng xóm một vách ngăn. Mỗi lần bà ra ngoài, vì sợ đánh mất tiền, nên đều buộc vào eo.

Một hôm bà phải tới miếu Viên Diệu dâng hương, nghe nói trong đó có nhiều kẻ móc túi, bèn tháo tiền buộc ở eo ra, nhờ người tên A mà bà quen biết cất giữ hộ. Bà thắp hương xong bèn tới chỗ A lấy tiền, A trở mặt nói: “Ai giữ tiền của bà!” Bà lão kinh ngạc, biện bạch với y. A chỉ lên trời mà thề nhằm thể hiện là mình bị oan ức. Hai người tranh cãi không dứt, mọi người vây quanh xem rất đông nhưng không thể nào phân biệt được ai đúng ai sai. Khi bà lão đưa tiền cho A, có B là người ở lân cận miếu này cũng có mặt tại đó, tận mắt chứng kiến việc trên. Khi hai người tranh cãi, y vẫn ở trong miếu. Bà lão bèn nhờ B làm chứng. B cười mà nói rằng: “Bà đúng là gặp quỷ giữa ban ngày, tôi vừa từ Xương Môn về, đến bà cũng chưa từng thấy mặt, sao có thể biết được hai người ai đúng ai sai!” Mọi người nghe xong lời của B, đều thi nhau tranh luận, cho rằng bà lão không đúng. Bà lão không thể nào nói lại họ, đành lẳng lặng ra về treo cổ tự vẫn.
Người con trai trở về, thấy mẫu thân treo cổ tự vẫn, lại không hay biết nguyên cớ vì sao, vô cùng đau khổ, đành mang mẫu thân đi khâm liệm. Anh gặp chuyện không may ập tới, lại không thể tìm được căn nguyên, vô cùng đau khổ mà lâm bệnh. Trong cơn hôn mê, mơ thấy mẫu thân đến trước mặt nói với anh rằng: “Con trai ơi, ngày mai trước miếu Viên Diệu, Trời sẽ phóng sét đánh chết hai người, nỗi oan của ta sẽ được minh bạch, tiền của chúng ta sẽ được trả lại, con dù mang bệnh cũng nên tới đó mà xem!” Ngày hôm sau, người con trai, quả nhiên tới đó, đến trước am, chỉ thấy bầu trời trong sáng. Không lâu sau, đột nhiên mây đen ùn ùn kéo tới, sấm chớp liên hồi, một tiếng nổ to, đánh sét dội thẳng xuống, A và B mỗi người cầm một túi bạc, quỳ dưới đất, đã bị sét đánh chết. Một lúc sau. B hồi tỉnh, kể lại tường tận mọi chuyện với mọi người đứng vây quanh: “Hôm đó, sau khi bà lão đưa bạc nhờ A giữ hộ, A liền nảy lòng tham âm mưu nuốt trôi số bạc, y giữ lại 7 phần, chia hối lộ cho tôi 3 phần.” Không ngờ hai người chúng tôi mạo phạm làm trời phẫn nộ. Diêm Vương kết tội cho A, đặc xá tội chết cho tôi, ra lệnh cho tôi kể lại chuyện này cho mọi người biết và trả lại số bạc cho con trai bà lão ấy. Tôi lại không biết tính danh người con trai đó, nên làm thế nào đây? Có người trong số đó biết chuyện này, liền chỉ con trai của bà lão nói: “Đây chẳng phải là người mất bạc hay sao?” Người con trai nhận lại số bạc trước mặt mọi người, về đến nhà, tưởng nhớ mẫu thân khóc thổn thức, sức khỏe cũng dần hồi phục lại bình thường. B nằm liệt giường nửa năm mới đi lại được, nhưng một bên tay và một bên chân đã bị gãy, mang thân tàn tật suốt đời. Có câu thơ rằng: “Cần công châm chỉ khổ thương tâm, tích cửu toại du số thập kim. Nhĩ khả muội tha minh tỷ dụng, tang thiên khải phụ khổ nhân tâm.”(Cặm cụi thêu thùa khổ thương tâm, Lâu ngày tích cóp mấy mươi đồng, Kẻ xấu cùng bạn lừa đoạt vàng, Trời xanh sao phụ kẻ khổ tâm?)

(Trích từ “Thái Thượng Cảm Ứng Thiên Lệ Chứng” cùng “Tọa Hoa Chí Quả”) 

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Vẻ đẹp của đức khiêm tốn

Trong văn hóa truyền thống của Trung Quốc, đức khiêm tốn là đức tính khiêm nhường, tiết kiệm, đã ảnh hưởng tới lịch sử 5.000 năm của Trung Quốc và trở thành một trong những đặc tính nổi bật của dân tộc Trung Hoa. Vẻ đẹp khiêm tốn ôn hòa là một trong những cảnh giới cao thượng, Trang Tử nói: “Thiên địa hữu đại mỹ nhi bất ngôn, tứ thời hữu minh pháp nhi bất luận, vạn vật hữu thành lý nhi bất thuyết” (Trời đất đẹp vĩ đại mà không lên tiếng, bốn mùa có minh pháp mà không đàm luận, vạn vật có lý thành mà không nói ra), chỉ ra rằng trời đất ôm giữ vạn vật, ban tặng cho vạn vật, còn bản thân lại không thu giữ bất cứ thứ gì, chất phác, khiêm nhường, bác đại vô tư, mọi người nên thuận theo Pháp của Thiên đạo, đồng tâm cùng trời đất, yêu quý chúng sinh thiên hạ bằng sự vô tư, có khí chất và tấm lòng bao dung vạn vật. Xưa nay cổ nhân tôn sùng những bậc quân tử khiêm nhường có mà không giữ, đầy mà không tràn, có thực mà không kiêu ngạo.

Trong hai chữ “Khiêm tốn” đã hàm chứa triết lý sâu sắc. Những câu giáo huấn thời xưa như: “Hư kỷ giả tiến đức chi căn” (Người khiêm nhường là gốc tích đức), “Lao khiêm hư kỷ, tắc phụ chi giả chúng; kiêu mạn cứ ngạo, tắc khứ chi giả đa.” (Người khiêm nhường có thể đứng trước mọi người, kẻ cậy công ngạo mạn đứng sau mọi người) Lão tử nói: “Người không tự cho mình là đúng, mới có thể phán đoán phân minh sự tình; người không tự khen mình, công lao của người này mới được khẳng định; người không kiêu ngạo mới có thể thành đại sự.” Khiêm tốn là mở lòng dung nạp người khác, tôn trọng người khác; là tinh thần không ngừng đạt đến sự hoàn mỹ khiêm nhường như hẻm núi, không ngại hạ mình thành khẩn thỉnh giáo; không vì tư lợi, không làm nổi bật bản thân, gặp người hiền đức thì học hỏi phấn đấu, gặp kẻ xấu tự kiểm điểm bản thân. Những ví dụ về tính khiêm tốn của cổ nhân không sao kể xiết, dưới đây là vài ví dụ trong đó:

Đường Nghiêu cầu người hiền, nhượng người hiền
Trong bài mở đầu cuốn “Nghiêu Điển – Thượng Thư” có mô tả Nghiêu Đức như sau: “Duẫn cung khắc nhượng, quang bị tứ biểu, cách vu thượng hạ. Khắc minh tuấn đức, dĩ thân cửu tộc. Bình chương bách tính, hiệp hòa vạn bang.” (Duẫn, cung, khắc, nhượng, được tứ phương ca ngợi, được lòng hết thảy trên dưới. Ước thúc đạo đức tốt đẹp, gần gũi cửu tộc. Bình ổn bách tính, hòa thuận vạn bang) Duẫn, cung, khắc, nhượng tức là bốn đức tính thành tín, cung kính, thiện năng, khiêm nhường. Trong bốn loại mỹ đức này, đức tính khiêm tốn của Nghiêu đứng ở vị trí trung tâm, sau này hậu nhân gọi là Đạo. Trong cuốn “Nhượng Vương – Trang Tử” có ghi chép: Nghiêu trị vì vạn dân thiên hạ, khiến bốn phương thanh bình, ông tiến cử người hiền, tín nhiệm người tài, có thể gọi là nhân tài kiệt xuất. Nhưng ông vẫn cho rằng mình chưa đủ tài năng đức độ, chỉ lo mai một nhân tài, thường tự mình vào núi sâu rừng già tra xét cẩn thận, cầu người hiền học đạo, trước sau ông từng bốn lần nhượng lại ngôi thiên tử cho những nhân sỹ hữu đạo nổi tiếng là Phương Hồi, Thiện Quyển, Phi Y, Hứa Do. Nghiêu từng nói: “Thiên hạ giả, công chi giả dã, phàm vi công giả, hiền giả vi tôn, nãi hành thiên hạ chi đại đạo dã. Mỗ đức bạc tài sơ, thâm khủng di ngộ thương sinh.” (Người trong thiên hạ, người vì việc công, phàm đều là người chí công vô tư, là bậc hiền giả đáng được suy tôn, là người thực thi đại đạo của thiên hạ. Ta đức mỏng tài mọn, chỉ lo phạm lỗi với chúng sinh)Các vị nhân sỹ hiền đức thấy Nghiêu khiêm nhường cung kính như vậy, vô cùng khâm phục mà rằng: “Ưu dân thâm thiết như tư, vô quái thần dân hô Nghiêu thiên dã.”(Một lòng lo cho dân như vậy, hèn chi thần dân tung hô là trời Nghiêu), đều khước từ chức vị đi ẩn cư. Nghiêu còn bái Bồ Y, một đạo sỹ trứ danh làm thầy, vô cùng cung kính với thầy, luôn giữ lễ của một đệ tử, hướng mặt về phía Bắc mà cầu học. Sau này ông nhường ngôi cho Thuấn, một người tài đức vẹn toàn. Vương Dương Minh thời Minh nói: “Sở dĩ Nghiêu Thuấn có thể là thánh nhân, chính vì sự khiêm nhường đến cảnh giới chân thành nhất, cũng chính là ‘duẫn cung khắc nhượng, ôn cung duẫn tắc’. Cho nên đạo người quân tử chính là giỏi dùng đức khiêm nhường mà chiếu sáng người khác, khiêm nhường cung kính đãi người, trước nghĩ tới người, sau mới nghĩ tới mình.”

Lão Tử nói rằng: “Giang hải năng vi bách cốc vương”(Biển cả có thể trở thành vua của trăm dòng suối)
Lão Tử nói: “Thượng thiện nhược thủy, thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, thử nãi khiêm hạ chi Đức dã; cố giang hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kỳ thiện hạ chi, tắc năng vi bách cốc vương.” (Thiện như nước, nước có lợi cho vạn vật mà không tranh cùng vạn vật, đây cũng chính là đức khiêm nhường; cho nên biển lớn có thể làm vua của trăm dòng nước, lấy thiện đối đãi, thì có thể thành vua của trăm mạch) Ý tứ ở đây là hành thiện tối cao, có lẽ cũng giống như nước, tạo phúc cho vạn vật, nuôi dưỡng vạn vật, lại không tranh cao thấp cùng vạn vật, đây mới là đức khiêm nhường, là đạo đức cao đẹp nhất. Biển cả sở dĩ có thể trở thành nơi hội tụ của tất cả dòng sông lớn nhỏ, là vì nó rất giỏi ở nơi hạ du, có thể thu nạp, bao dung tất cả mọi dòng sông lớn nhỏ, để trở thành vua của trăm mạch. Lão Tử đã ví “biển cả” giống bậc “thánh nhân”, cho rằng sở dĩ lòng dân trong thiên hạ đều hướng về thánh nhân, là do “đức khiêm nhường”, chứ không phải sự cao ngạo, đặt mình sau lợi ích của nhân dân, có thể bao dung tất cả, do đó người trong thiên hạ tôn trọng, ủng hộ thánh nhân. Lão tử còn nói: “Công thành nhi phất cư. Phu duy phất cư, thị dĩ bất khứ” (Công thành mà không ỷ thế. Ta không ỷ thế, nên [công] còn mãi), “Phu duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.” (Ta không tranh, nên thiên hạ không tranh với ta) Ý nói là thánh nhân xưa nay không hề ỷ công mà tự cao, chính vì vậy, kỳ công của thánh nhân mới vĩnh viễn không mất đi. Do không tranh, nên thiên hạ không có người có thể tranh với mình.

Khổng Tử bàn việc “Bất sỉ hạ vấn” (Không ngại hỏi người dưới)
Có vị đại phu tên Khổng Ngữ nước Vệ thời Xuân Thu thông minh hiếu học, vô cùng khiêm tốn. Sau khi Khổng Ngữ qua đời, quân vương nước Vệ vì muốn người đời sau noi gương và phát huy tinh thần hiếu học của ông, nên đặc biệt phong tặng cho ông danh xưng “Văn Công”, người đời sau liền tôn vinh ông là Khổng Văn Tử. Tử Cống, học trò của Khổng Tử, ông không hiểu hà cớ gì Khổng Ngữ lại xứng đáng được đánh giá cao như vậy, bèn hỏi Khổng Tử rằng: “Dẫu rằng học vấn và tài hoa của Khổng Ngữ rất cao nhưng còn nhiều người kiệt xuất hơn ông ta, tại sao lại ban tặng cho ông danh hiệu ‘Văn Công’?” Khổng Tử nói: “Khổng Ngữ nỗ lực học tập, nếu có bất kỳ chỗ nào không hiểu, thì dù cho đối phương là người có địa vị hay học vấn không bằng ông, ông cũng rộng lượng khiêm nhường mà thỉnh giáo, không coi việc thỉnh giáo những người có địa vị, học vấn không bằng mình là chuyện đáng xấu hổ, đây chính là điểm khó có được. Thông minh, hiếu học, không ngại hỏi kẻ dưới, mới xứng gọi là “Văn”, do đó ban cho ông danh hiệu “Văn Công” không có gì không xứng đáng cả.” Tử Cống liền minh bạch sự tình. Bản thân Khổng Tử cũng vậy, ông học vấn uyên thâm, nhưng vẫn khiêm tốn học hỏi người khác, làm gương cho học trò.

Gia Cát Lượng khiêm nhường nghe lời can gián
Gia Cát Lượng tài đức vẹn toàn, được hậu thế tôn xưng là “Trí Thánh”, ông cả đời cầu người hiền như khát nước, lại giỏi can gián. Sau khi đảm nhiệm chức tể tướng, ông cho xây một đài cầu người hiền tại phía Nam Thành Đô, nhằm nghênh đón nhân sỹ tứ phương, trọng dụng một lớp nhân tài trác việt tài đức vẹn toàn. Hành động này được người đương thời gọi là “đức cử” (hành động đạo đức). Trong văn võ bá quan mà ông tin dùng, có vị nhân sỹ tên Kinh Sở là nhân tài đất Thục, lại có tướng Ngụy Ngô Hàng, ông có tấm lòng bao dung bốn bể, độ lượng với mọi người, vạn vật, được người đời ngợi ca, người đương thời gọi ông là “Quan Thục đều là tuấn kiệt trong thiên hạ.” Khi giải quyết việc quốc gia đại sự ông luôn suy nghĩ vì lợi ích chung, nghe theo những ý kiến và kiến nghị khác nhau. Ông vài lần ban hành công cáo cổ vũ tướng sĩ thẳng thắn can gián, yêu cầu mọi người phê bình những sai lầm, thiếu sót của bản thân. Ông thường khích lệ và tán thưởng những người chỉ ra và đề xuất cách trị quốc lo việc đại sự có tinh thần trung với nước, còn nói rằng nếu tất cả mọi người đều nghiêm túc, chăm chỉ, khích lệ lẫn nhau như vậy, thì hẳn “tắc lượng khả dĩ thiểu quá hỹ”. (sáng suốt có thể giảm thiểu sai sót) Ông có nói trong “Tự miễn” (Tự khích lệ) rằng: “Kiêu giả chiêu hủy, vọng giả nhẫm họa” (Kẻ kiêu ngạo tự chiêu mời diệt vong, kẻ làm bừa tự rước họa vào thân), không bao giờ ỷ công ngạo mạn, không tranh công đổ lỗi, dám gánh vác trách nhiệm, một lòng hành thiện. Trong lịch sử ghi chép ông trị nước Thục rằng: “Khoa giáo nghiêm minh, thưởng phạt tất tín, vô ác bất trừng, vô thiện bất hiển.” (Khoa giáo nghiêm minh, thưởng phạt công minh, không tội ác nào không bị trừng trị, không điều thiện nào không được tuyên dương).

Khiêm tốn như cây trúc
“Vị xuất thổ thời tiện hữu tiết, đãi đáo lăng vân canh hư tâm” (Khi chưa rời thoát ra khỏi mặt đất đã biết tiết chế, tới khi vươn tới trời xanh lại càng khiêm tốn), các thi nhân xưa thường dùng cây trúc để ca ngợi phẩm cách khiêm tốn. Cây trúc vô cùng khiêm nhường, cho nên mới từ búp măng mà thành cây trúc, vươn tới mây xanh. Nhà thơ Bạch Cư Dị đời Đường trong cuốn “Dưỡng trúc ký” có viết rằng: “Trúc tự hiền, trúc tính trực, trực dĩ lập thân; quân tử kiến kỳ tính, tắc tư trung lập bất ỷ giả. Trúc tâm không, không tự thể đạo; quân tử kiến kỳ tâm, tắc tư ứng dụng hư giả. Trúc tiết trinh, trinh dĩ lập chí; quân tử kiến kỳ tiết, tắc tư chỉ lệ danh hành.” (Trúc tựa như người hiền, trúc tính thẳng, lấy ngay thẳng lập thân; quân tử thấy đặc tính đó, thì không ỷ lại. Ruột trúc rỗng, lấy rỗng hành đạo; quân tử thấy ruột trúc, thì nghĩ nên khiêm nhường. Trúc khí tiết trung trinh, dùng trung trinh lập chí; quân tử thấy tiết tháo đó, thì nghĩ cần rèn giũa danh tiếng và hành vi của mình) Thông qua đặc tính chính trực, khiêm nhường, khí tiết của cây trúc mà miêu tả được nét tương đồng về phẩm cách của cây trúc và phẩm cách của con người. Bạch Cư Dị cũng là người như vậy, tương truyền sau khi ông viết xong một bài thơ, thường hay đọc cho mục đồng hoặc lão phu nhân nghe, sau đó còn sửa đi sửa lại nhiều lần, tới khi họ hài lòng mới được coi là viết xong. Do đó đặc điểm lớn nhất trong thơ của Bạch là tính dung dị dễ hiểu, tinh tế tuyệt mĩ. Tô Thức đời Tống có viết trong cuốn “Tống Tham Liêu Sư”: “Dục lệnh thi ngữ diệu, thiên yếm không thả tịnh, tịnh cố liễu quần động, không cố nạp vạn cảnh.” (Muốn khiến lời thơ đẹp, chẳng đầy, ‘không’ mà ‘tĩnh’; ‘tĩnh’ dẫn động cả đoàn, ‘không’ thu nạp vạn cảnh) Dẫu rằng cụ thể là nói về thơ, nhưng đồng thời cũng nói đến đạo lý “bình thản khiêm nhường”. Tâm thái bình ổn, khiêm nhường vô hạn, vậy mà không chỗ nào không vươn tới, bình thản khiêm nhường mà có thể cảm ngộ được biến hóa tinh tế của vạn vật, đạt đến cảnh giới có thể dung nạp, gánh vác được vạn sự vạn vật.

Đức khiêm nhường thụ phúc
Trong “Dịch Thư” có nói: Đạo lý của trời, bất luận thế nào, mọi sự kiêu ngạo tự mãn, sẽ khiến cho người đó phải chịu thiệt thòi, còn người khiêm tốn sẽ giúp cho người đó nhận được nhiều lợi ích. Do đó những người rộng lượng, phúc ân cao dày; người lòng dạ hẹp hòi, phúc ân tất mỏng, hơn nữa khiêm nhường và kiêu ngạo, cũng là vạch ngăn giữa phúc và họa. Như Viên Liễu Phàm thời Minh cùng chín người trong huyện đi thi tiến sỹ, trong đó có một vị tên là Đinh Kính Vũ trẻ tuổi nhất, là người khiêm nhường, lễ nghĩa. Viên Liễu Phàm liền bảo với người bạn tên Phí Cẩm Pha rằng: “Đinh Kính Vũ năm nay nhất định thi đỗ tiến sỹ.” Phí Cẩm Pha nói: “Làm sao mà biết được?” Viên Liễu Phàm đáp rằng: “Khiêm nhường được phúc. Anh xem xem trong mười người chúng ta, có ai khiêm tốn bằng Đinh Kính Vũ, luôn giữ chữ tín, cung cung kính kính, trước đám đông, cậu ấy không kiên quyết giữ thành kiến của mình, có thể lắng nghe và tôn trọng ý kiến của người khác mà không hề tỏ chút kiêu ngạo. Dù là chuyện rất nhỏ, cậu ấy cũng nghĩ cho người khác, vì thuận tiện cho người khác, điều này quả thực khó có được! Một người có thể đạt được cảnh giới cao như vậy, thần linh cũng sẽ bảo hộ cậu ấy, sao có thể có đạo lý thi trượt được!” Đến lúc công bố danh sách, Đinh Kính Vũ quả nhiên thi đỗ!

Con người chỉ cần có tâm cao ngạo, sẽ ngăn trở bản thân hành đức thăng tiến. Chỉ có khiêm tốn, nỗ lực đề cao làm điều nhân đức mới là ý nghĩa nhất. Khiêm tốn là nghiêm khắc có kỷ luật với bản thân, khoan dung đối đãi với người khác, cảnh giới tư tưởng không ngừng thăng hoa như đạo lý nhật tân: “Cẩu nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân”(Đối mới mỗi ngày, ngày ngày đổi mới, lại đổi mới mỗi ngày); khiêm nhường là “phép tắc của trời đất”, là tấm lòng “dân bào vật dữ”, có thể bao dung và thiện hóa tất cả vạn sự vạn vật trên thế gian.

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Gương người xưa: Cự tuyệt chuyện dâm đảng, tuổi thọ được kéo dài

Người xưa đều rất chú trọng tu dưỡng đạo đức nhân luân, cũng tin rằng hành thiện là phải lấy thủ đức bất tà dâm làm trọng. Người có thể nhìn sắc mà bất tà dâm ắt sẽ tích đại âm đức (*), được đại phúc báo.

Vào triều Minh, ở Ninh Ba tỉnh Chiết Giang có một thư sinh tên là Tôn Đạo, do gia cảnh bần hàn nên lấy việc dạy dỗ trẻ con làm nghề nghiệp kiếm sống. Sau đó vì không giữ được chức nghiệp này, bèn gửi thân nơi nhà họ Trương ở Đường Tây, giúp sao chép viết lách, đổi lấy chút cơm áo sống qua ngày. Tuy thân trong cảnh thanh bần, nhưng trước sau vẫn kiên trì chính trực, không thay đổi tiết tháo thanh bạch của mình.

Một hôm lúc đêm khuya, nhà họ Trương có một nữ tỳ, lớn lên có chút nhan sắc, nhìn thấy Tôn Đạo tuy ăn mặc giản dị nhưng mặt mày khôi ngô tuấn tú, cử chỉ nho nhã, bất giác xuân tình dập dờn, mới lẻn vào phòng Tôn Đạo định gạ gẫm quan hệ bất chính. Tôn Đạo sau khi biết ý đồ cô gái, liền dùng lời lẽ nghiêm khắc cự tuyệt: “Cô nương hãy bỏ ngay ý nghĩ sai lầm ấy! Phải biết quý trọng thanh danh của mình chứ! Tôi là người đọc sách Khổng Mạnh, nghe theo lời dạy nam nữ thụ thụ bất thân, lẽ nào đi làm cái việc thú tính đồi phong bại tục như thế! Xin cô mau đi đi cho!” Nói rồi trừng mi trợn mắt, mở rộng cửa để cô gái bước ra. Cô nữ tỳ đành chịu, thẹn thùng bước ra cửa mà đi.

Nào ngờ cảnh này đã bị ông thầy tư thục phẩm hạnh không đoan chính của nhà họ Trương thấy được. Ông ta thấy cô gái mỹ miều như hoa, nên lợi dụng cơ hội này tìm cớ lén hẹn hò cô nữ tỳ. Sau khi làm việc cẩu thả không lâu, ông thầy tư thục bỗng nổi mụn nhọt, không thuốc trị được, đau quá bèn bỏ dạy về nhà điều trị. Quả báo tà dâm đến ngay lập tức, quả nhiên rõ như ban ngày! Lẽ nào chưa đủ khiến người đời sau lấy làm gương?

Vị thầy tư thục đi rồi, chủ nhà mời Tôn Đạo làm thầy dạy con của họ. Một ngày nọ, Tôn Đạo chạm mặt người chú ở Giang Khẩu. Người chú kinh ngạc nói: “Có một việc kỳ quái mà ta tìm cháu để nói. Vì con ta mắc bệnh nặng, ta đến miếu hoàng thành cầu khấn, tối hôm ấy ta có một giấc mộng rõ ràng. Mộng thấy lão thành hoàng ngồi trên điện, hô hoán thuộc hạ cải mệnh cho một số người được định sẵn là sẽ bị chết đói. Khi đọc đến khoảng người thứ mười mấy, ta nghe thấy tên cháu. Ta trộm hỏi vị minh quan, vì sao Tôn Đạo có thể cải mệnh? Minh quan nói: ‘Bản mệnh người này, năm 46 tuổi sẽ chết đói ở xứ người. Vì đêm ngày 18 tháng 4 năm nay, anh ta nghiêm khắc cự tuyệt dâm bôn với tỳ nữ, tích được đại âm đức, bởi thế kéo dài thọ mệnh hai kỷ (một kỷ là 12 năm), đổi từ chết đói thành lộc tịch’. Cháu nhớ lại xem, có đúng cháu từng cự tuyệt tỳ nữ dâm bôn hay không?”

Tôn Đạo lặng lẽ gật đầu thừa nhận là có chuyện đó.

Sau đó, thuận theo việc học sinh theo học Tôn Đạo ngày càng nhiều, tiền học học sinh nộp mỗi năm mấy trăm lạng bạc. Đến năm Vạn Lịch thứ 36 triều Minh, Tôn Đạo 46 tuổi, cũng chính là năm cần cải mệnh chết đói, quả nhiên xảy ra mất mùa, giá gạo trở nên rất đắt, người nghèo hoàn toàn không có tiền mua, khi ấy người chết đói rất nhiều. Tuy nhiên Tôn Đạo không chỉ thoát được kiếp này, mà cuộc sống còn hết sức dư dả. Đến những năm cuối đời, phủ họ Tôn đã trở thành cự phú, ứng nghiệm với điều mà minh quan gọi là “lộc tịch”. Năm 70 tuổi, ứng nghiệm với câu “kéo dài thọ mệnh hai kỷ”, Tôn Đạo không bệnh mà mất.

Từ đó mà thấy, đúng là: trên đầu ba thước có trời xanh, hành vi nơi phòng kín mà bị Thần nhìn rõ. Cự nữ dâm bôn âm đức lớn, thọ thêm hai kỷ bất hư truyền. Xin khuyên người đời mau thủ đức, Trời ban Thần tặng phúc lộc toàn. Ngẫm chuyện xưa xét việc nay mà cảm khái vô cùng. Dưới sự đầu độc của thuyết vô thần, hiện nay ở Trung Quốc, quan viên hủ bại, tham lam tột độ, dân chúng cũng bị cuốn theo, trong dòng dơ bẩn của đồi trụy mà như cá gặp nước, tự cảm thấy vui vẻ lắm. Nào là tình dục ngoài hôn nhân, tình một đêm, bao bồ nhí, ở với nhau không cần kết hôn, sống thử, v.v. có thể nói là loạn bát nháo cả rồi.

Vạn ác dâm vi thủ, thiện ác hữu báo thị thiên lý, đây là định luật bất di bất dịch của Trời, không phụ thuộc ý chí con người. Vậy thì thử nghĩ xem: cổ nhân cự nữ dâm bôn tích đức được phúc báo thọ thêm hai kỷ, phóng túng tà dâm tổn âm đức gặp phải báo ứng như thế nào? Hỡi những ai lạc đường, hãy mau thanh tỉnh đi thôi! Triệt để vứt bỏ hành vi tà dâm đồi bại, trở về khí tiết chính đạo trọng đức, chính khí trời đất trường thịnh bất suy, thì may mắn lắm thay!

(*) âm đức: người xưa cho rằng việc làm nhân đức trên dương gian đều được ghi công ở âm phủ.

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

Làm điều thiện là việc hạnh phúc nhất thế gian

Câu thành ngữ cổ của Trung Quốc “Vi thiện tối nhạc” thể hiện một nguyên lý rằng, làm việc thiện là cội nguồn của hạnh phúc tuyệt vời.

Câu thành ngữ xuất phát từ thời Đông Hán, (năm 25-220 sau công nguyên) trong triều đại của hoàng đế thứ 2, vua Hán Minh Đế, hay còn được gọi là Minh hoàng đế (trị vì 57-75 sau công nguyên).

Câu chuyện kể về Lưu Thương, một người con của Lưu Tú, vị vua sáng lập nhà Đông Hán.

Theo dữ liệu lịch sử, Lưu Thương học rộng tài cao và được Minh hoàng đế rất yêu mến. Lưu Thương được phong Đông Bình Công trong khoảng năm 39 sau công nguyên, và sau đó trở thành Tiên Thái Tử Đông Bình.

Mỗi lần vua cha đích đích thân đi du hành đều chọn Lưu Thương trông coi việc triều đình.

Mặc dù có địa vị cao quý nhưng Lưu Thương không bao giờ tỏ ra kiêu ngạo ngông cuồng như thường được thấy ở giới hoàng thân quốc thích.

Mà trái lại, ông rất chú trọng đến lợi ích của người khác và thường khuyên Minh Đế lấy bình an và thịnh vượng của xã tắc làm trọng.

Danh tiếng của Lưu Thương ngày càng lan rộng vì tiêu chuẩn đạo đức cao và lòng trung trực của ông. Tuy nhiên, điều này làm ông không vui và ông đã xin vua cha cho thoái chức Thái Tử, trở về ấp Đông Bình.

Minh Đế chần chừ không muốn cho ông thoái vị, nhưng sau một thời gian lâu cuối cùng cũng chấp thuận.

Sau khi trở về ấp Đông Bình, Lưu Thương tiếp tục trợ giúp Minh Đế giải quyết nhiều vấn đề quốc gia đại sự, vì lợi ích của nhân dân và đất nước.

Vì vậy, Minh Đế vô cùng thương yêu và quan tâm đến Lưu Thương, một lần đã hỏi Lưu Thương rằng điều gì làm ông vui vẻ nhất khi ở nhà.

Lưu thương đơn giản trả lời rằng, “Vi thiện tối nhạc (làm điều thiện là việc hạnh phúc nhất thế gian)”. Sau đó câu nói này đã trở thành câu thành ngữ trong dân gian mang nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Câu nói thể hiện niềm tin rằng làm điều thiện và giúp đỡ người khác đến từ tâm vô vị kỷ và tâm thiện đối với người khác, là việc hạnh phúc nhất và tích được phúc phận cho một tương lai tốt đẹp.

Trong một báo cáo được Quỹ Sức Khỏe Thần Kinh xuất bản tại Anh vào tháng 5 năm 2012 có tựa đề “Làm việc tốt?” chỉ ra bằng chứng rằng đối xử tốt và giúp đỡ người khác sẽ có lợi cho sức khỏe tinh thần và thể chất của chúng ta.

Rabbi Reuven Bulka, một tác giả và lãnh đạo nổi tiếng đã nói “Làm điều tốt có 3 cái lợi,”

“Thứ nhất, nó không mất tiền. Thứ 2, nó làm cho người khác thấy vui vẻ. Và thứ ba, nó sẽ làm bạn thấy hạnh phúc.” Rabbi trả lời báo Đại Kỷ Nguyên khi chuẩn bị phát động Tuần làm việc thiện ở thành phố Ottawa năm 2008.