Trang chu

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Từ bi là cao thượng nhất trên thế gian

Thuở ấu thơ, tôi luôn mơ ước được làm một người cao thượng. Tuy nhiên, lúc đó tôi không thật sự hiểu ý nghĩa của hai từ “cao thượng” là gì. Tôi đã nghĩ rằng nếu một người không làm việc xấu, và chỉ làm việc tốt, thì đó là một người cao thượng. Khi lớn lên, tôi dần dần nhận ra rằng cao thượng không chỉ thể hiện ở việc một người làm bao nhiêu việc tốt trên đời này. Nó còn thể hiện ở việc người đó không bị ô nhiễm bởi thói hư tật xấu và không ôm giữ oán giận trong tâm.

Truyện xưa kể rằng, có một thương gia rất giàu có. Khi về già, ông ấy quyết định để lại gia sản của mình cho các con. Ông ấy đã để ba người con trai của mình đi chu du khắp thiên hạ để làm ăn. Trước khi các con đi, ông căn dặn: “Sau một năm, các con hãy trở về và kể cho cha nghe điều cao thượng nhất mà các con đã làm được trong một năm đó. Cha không muốn chia nhỏ gia sản của mình, bởi vì nó chỉ có thể giữ được khi toàn vẹn. Một năm sau, con nào làm được việc cao thượng nhất sẽ được thừa kế toàn bộ gia sản này”.

Một năm sau, từng người con trai một đã trở về nhà. Người con trai cả lên tiếng trước tiên: “Trong chuyến đi của mình, con đã gặp một người lạ. Ông ấy rất tín nhiệm con và gửi con trông giúp một túi vàng. Sau đó, ông ấy không may qua đời. Con đã không hề động vào số vàng đó và trao trả nó nguyên vẹn cho gia đình ông ấy”. Người cha khen ngợi cậu con trai: “Con làm tốt lắm. Tuy nhiên, sự trung thực là một phẩm chất đạo đức mà một người nên có. Nó không thể được coi là một hành vi cao thượng”. Người con trai thứ hai tiếp lời: “Con đã đến một ngôi làng rất nghèo. Con trông thấy một đứa trẻ chẳng may ngã xuống suối và đang chết đuối. Con đã lập tức xuống ngựa và nhảy xuống suối. Bất chấp việc tính mạng mình có thể gặp nguy hiểm, con đã cứu được cậu bé đó”. Người cha tán thưởng: “Con khá lắm! Tuy nhiên, cứu người đang lâm nguy là việc cần làm. Nó cũng không thể được coi là một hành vi cao thượng”. Người con trai út hơi ngập ngừng và nói: “Con có một kẻ thù. Anh ấy đã cố tìm mọi cách để hại con. Nhiều lần con đã suýt chết dưới tay anh ấy. Một đêm, trong chuyến đi của mình, con cưỡi ngựa đến gần bờ một cái vực. Con phát hiện ra kẻ thù của mình đang ngủ dưới gốc cây ở gần đó. Chỉ cần một cú đá nhẹ, con có thể đá anh ta xuống vực. Tuy nhiên, con đã không làm vậy. Con đã đánh thức anh ấy và bảo anh ấy tiếp tục lên đường. Thực ra, đó cũng không phải là việc gì to tát…” Người cha xúc động nói: “Con trai, việc con giúp kẻ thù của mình chính là sự cao thượng và trong sạch. Con đã làm một việc cao thượng. Đến đây con, toàn bộ gia sản của ta thuộc về con”.

Thực ra, một người có thể gọi là tốt nếu chỉ làm việc tốt, nhưng đó không thể được tính là cao thượng trên thế gian này. Dùng đức hạnh để xoa dịu sự tức giận, và không dùng cái ác để trị ác, mà dùng từ bi để cảm hóa kẻ thù, đó mới là hành vi cao thượng nhất trên thế gian này!

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Cái thùng gánh nước bị nứt

Xưa, có người dùng hai cái thùng gỗ lớn để gánh nước. Theo thời gian, một trong hai cái bị nứt, vì vậy khi gánh nước từ giếng về thì chỉ còn một nửa.

Cái thùng còn nguyên rất tự hào về sự hoàn hảo của mình, còn cái bị nứt luôn cắn rứt vì không hoàn thành nhiệm vụ. Một ngày nọ, cái thùng nứt nói với người chủ:
- Tôi thật xấu hổ về mình. Tôi muốn xin lỗi ông!
- Ngươi xấu hổ về chuyện gì?
- Chỉ vì lỗi của tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của ông.
- Không đâu, khi đi về ngươi hãy chú ý đến những luống hoa bên vệ đường. Người chủ từ tốn trả lời.
Quả thật, dọc theo vệ đường là những luống hoa rực rỡ. Cái chậu nứt cảm thấy vui vẻ phần nào, nhưng rồi, về đến nhà, nó chỉ còn phân nửa nước nên lại ray rứt:
- Tôi xin lỗi ông...
- Ngươi không chú ý rằng hoa chỉ mọc bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã biết được vết nứt của ngươi và đã tận dụng nó. Ta gieo những hạt giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi và trong những năm qua ngươi đã tưới cho chúng. Ta hái những cánh hoa đó để trang hoàng căn nhà. Nếu không có ngươi, nhà ta sẽ không ấm cúng và duyên dáng như thế này đâu.

Lời bàn:Nếu chúng ta là cái thùng nứt thì hãy tận dụng vết nứt của mình.

Người xưa thường nói: "Dụng nhân như dụng mộc". Nghĩa là như người thợ mộc tận dụng tất cả các loại gỗ lớn nhỏ tốt xấu để làm nên những chi tiết khác nhau, cũng vậy, dùng người cũng phải biết đặc điểm của từng cá nhân mà phân công lao động hợp lý nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.

Người gánh nước trong câu chuyện, khi chưa đủ điều kiện để khắc phục hoặc thay thế cái thùng nứt thì đã khai thác khía cạnh hữu ích của vết nứt, hơn là bực bội, thất vọng về nó. Tận dụng nước rò rỉ từ cái chậu nứt để tưới hoa, lấy hoa tươi trang trí nhà cửa đẹp đẽ là một thái độ ứng xử đầy yêu thương và tuệ giác.

Quan trọng hơn chính là thái độ của cái thùng nứt. "Nhân vô thập toàn", không ai là người hoàn hảo cả, nói cách khác ai cũng là cái thùng nứt, khác chăng là nứt nhiều hay nứt ít, nứt ngang hay nứt dọc mà thôi. Đừng tự ti hay mặc cảm về "vết nứt" của mình.

Trước hết, nên quán sát về những ưu điểm của bản thân để vui sống. Ngoại hình không đẹp, không sao, vì mình có đời sống nội tâm, nhân hậu, thương người. Công việc thu nhập thấp, cũng chẳng hề gì, vì đó là một nghề lương thiện, chính đáng. Đời sống chưa cao, nhưng chẳng sao, vì xung quanh ta còn vô số kẻ đói nghèo v.v... Thấy được như vậy, cuộc sống sẽ thanh thản và nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

Tập nhận diện thật kỹ và sâu sắc về các "vết nứt" của mình để thấy được những điểm tích cực, hữu ích của nó. Một hạn chế về học vấn sẽ giúp ta trở nên khiêm cung, không kiêu căng tự mãn. Một khiếm khuyết về sức khỏe sẽ giúp ta biết trân quý sự sống, không tự tàn hại thân thể, biết nâng đỡ và tương trợ lẫn nhau... Xung quanh ta có nhiều người khuyết tật, tàn nhưng không phế, vẫn cố vượt lên hoàn cảnh. Phải quán sát và suy nghĩ cho đến lúc ta thấu hiểu và sống hài hoà với "vết nứt" của chính mình.

Còn nữa, nhờ "nứt" mới thấy "lành"; "nứt" đã làm nổi bật "lành". Như hai mặt trước và sau của tấm huy chương.

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Câu nói thông minh của Đông Phương Sóc đã cứu nhũ mẫu

Nghe kể lại rằng nhũ mẫu của Hán Vũ Đế mắc tội bên ngoài cung nên bị đưa về cung, bị bắt đến trước mặt Hán Vũ Đế và giao cho Hán Vũ Đế xử lý.

Hán Vũ Đế muốn xử nhũ mẫu theo luật. Đang khi nguy cấp, bà nhũ mẫu bèn cầu cứu Đông Phương Sóc. Đông Phương Sóc đã nhận lời với nhũ mẫu để thử xem, ông nói với nhũ mẫu rằng: “Nếu muốn được giải cứu, khi bị bắt, bà nên chú ý nhìn vào Vũ Đế, nhưng bà nhất định không được nói gì, chỉ có như vậy bà mới có hy vọng được cứu thoát“.

Nhũ mẫu y lời làm theo, khi bà bị bắt và bị đưa đến trước mặt Hán Vũ Đế, quả nhiên bà đã khấu đầu ba cái và cứ chú ý nhìn Hán Vũ Đế, đôi mắt bà để lộ ra tia ai oán và thê lương. Đông Phương Sóc lúc này đang ở bên Hán Vũ Đế liền nhân cơ hội nói với nhũ mẫu rằng: “Ngươi cũng thật là ngốc nghếch, hoàng đế hiện nay đã lớn khôn rồi thì còn cần gì đến sữa của ngươi để sống nữa.“

Hán Vũ Đế nghe vậy mặt bỗng biến sắc, thế là bèn miễn tội cho nhũ mẫu.

Câu nói này của Đông Phương Sóc được nói rất đúng lúc, đã đạt đến độ dung hoà với cảnh tượng và tự nhiên cũng đạt được mục đích là mở được cánh cửa sổ tâm hồn của Hán Vũ Đế và làm cho Hán Vũ Đế cảm động. Về vẻ bề ngoài, Đông Phương Sóc đang chỉ trích nhũ mẫu là quá ngốc nghếch, cứ cho rằng Vũ Đế phải cần sữa của bà để sống, nhưng câu nói của Đông Phương Sóc còn có một hàm ý khác là: Trước đây, Hán Vũ Đế đã sống nhờ vào sữa của nhũ mẫu, nhũ mẫu đã có ơn dưỡng dục đối với ông, vậy mà khi nhũ mẫu bị bắt, ông vẫn không động lòng hay sao?

Hán Vũ Đế, một người văn thao võ lược, một anh hùng của cả một thời đại tại sao lại không hiểu ngầm ý của Đông Phương Sóc cơ chứ, câu nói của Đông Phương Sóc đã làm thức tỉnh Hán Vũ Đế rằng không nên quên đi công lao của nhũ mẫu, như vậy ông đã tự nhiên tha tội cho nhũ mẫu, đó cũng là một việc hợp tình hợp lý.

Trích từ cuốn sách "Thuật Nói Chuyện"

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Học tập cần kiên trì và bền bỉ

Thời xưa, người ta coi trọng việc rèn luyện và những cố gắng không mệt mỏi để học tập. Họ nhấn mạnh việc chăm chỉ và bền bỉ. Họ không khuyến khích việc học chăm một ngày và lười biếng vào mười ngày sau. Nói cách khác, họ tin rằng một người cần phải nghiêm khắc với bản thân và không được lười biếng. Khi một người ra sức cố gắng, thì sẽ đạt được mục tiêu của mình. Cũng giống như câu nói cổ “đọc một cuốn sách một trăm lần, và tự nhiên bạn sẽ hiểu được ý nghĩa của nó.” Sau đây là hai câu chuyện về phương pháp học tập của cổ nhân.

Học tập cần kiên trì và bền bỉ

Trong triều đại Đông Tấn, nhà thơ nổi tiếng Đào Uyên Minh là một học giả uyên bác và thanh cao. Một thanh niên hỏi ông, “Tôi rất khâm phục ngài vì ngài rất hiểu biết. Ngài có thể nói cho tôi biết cách tốt nhất để học không?"

Đào Uyên Minh nói, “Không có cách tốt nhất đâu. Nếu anh chăm chỉ, anh sẽ tiến bộ. Nếu anh buông lơi, anh sẽ tụt hậu.”

Ông cầm tay người thanh niên và đưa anh đến một cánh đồng. Ông chỉ vào một mầm cây nhỏ và nói, "Hãy nhìn kỹ đi, anh có thể thấy rằng nó đang lớn lên không?”

Người thanh niên nhìn vào mầm cây hồi lâu và nói, “Tôi không thấy nó lớn gì cả.”

Đào Uyên Minh hỏi, “Thật không? Vậy thì sao một mầm cây nhỏ sau này có thể mọc cao đến vậy?” Ông lại tiếp tục, “Thực ra, lúc nào nó cũng phát triển. Tuy nhiên, chúng ta không thể nhìn bằng mắt được. Học tập cũng theo một quy luật như vậy. Kiến thức của chúng ta thu lượm được dần dần. Đôi khi chúng ta thậm chí không biết điều đó. Nhưng nếu anh liên tục làm vậy, anh sẽ tiến bộ.”

Đào Uyên Minh sau đó chỉ một hòn đá mài dao ở cạnh dòng suối và hỏi người thanh niên, “Tại sao bên kia của hòn đá lại lõm xuống giống như chiếc yên vậy?”

Người thanh niên trả lời, “Đó là bởi người ta dùng nó để mài dao mỗi ngày.” Sau đó, ông lại hỏi, “Thế chính xác thì ngày nào nó có hình dạng như vậy?”

Người thanh niên lắc đầu. Đào Uyên Minh nói, “Đó là vì những người nông dân dùng nó ngày này qua ngày khác . Học tập cũng vậy. Nếu anh không bền bỉ, [để giữ kiến thức của mình] anh sẽ tụt hậu.” Người thanh niên cuối cùng cũng đã hiểu ý ông. Anh cảm tạ Đào Uyên Minh.

Ông Đào viết cho anh những dòng sau, “Học tập chuyên cần cũng giống như một mầm cây mùa xuân. Nó lớn lên mặc dù chúng ta không thấy sự phát triển của nó mỗi ngày. Lười biếng cũng giống như [không dùng] hòn đá mài dao. Một người sẽ thất bại nếu anh ta không học hành chuyên cần.”

Cố Dã Vương trong triều đại Nam Lương, là một nhà sử học nổi tiếng. Sự hiểu biết của ông trải rộng trên nhiều lĩnh vực. Nhiều người tìm đến ông để nhờ ông giải đáp các câu hỏi. Một lần, con trai một người bạn của ông, Hầu Tuyển có hỏi ông rằng, “Ngài đã đọc rất nhiều kinh sách. Tôi muốn hỏi ngài liệu có đường tắt trong việc học tập không." Suy nghĩ một lúc, Cố Dã Vương chỉ một cái cây xum xuê và nói, “Nếu anh muốn biết đường tắt, anh cần nhìn vào cái cây này.”

Hầu Tuyển nhìn vào cái cây từ ngọn đến gốc ba lần nhưng chẳng thấy gì khác thường. Sau đó, anh ta hỏi, “Tôi quá mù quáng không thấy được gì. Xin ngài chỉ giáo.” Cố Dã Vương nói, “Với bộ rễ, cái cây có thể mọc cao và khỏe mạnh. Với cái gốc to khỏe, cái cây có thể lớn lên với tán lá dày. Chỉ với một mục đích cao cả và niềm tin vững chắc, người ta có thể có một tương lai sáng lạn. Lấy cái cây này làm ví dụ, một cái cây năm nào cũng mọc thêm một vòng gỗ. Người ta phải chuyên cần. Đi từng bước một. Đó chính là chìa khóa.”

Từ đó, Hầu Tuyển tĩnh tâm học hành. Anh tiến bộ nhanh chóng. Bạn bè anh hỏi, “Anh quen với những quyển sách đó đến mức anh có thể đọc chúng ngược từ dưới lên. Sao anh vẫn đọc chúng vậy?” Hầu Tuyển nói, “Không có đường tắt trong học tập. Người ta phải đi từng bước một. Tôi vẫn chưa thấu đáo rất nhiều luân lý và hàm nghĩa sâu xa trong những quyển sách đó. Vì thể mà tôi cần phải xem lại chúng để học được thêm điều gì đó mỗi lần.” Cố Dã Vương dạy con cháu rằng, “Một cái cây nhỏ ưa thích mặt trời vì nó muốn trở thành một cái cây lớn khỏe mạnh. Đối với một người, mục đích của cuộc đời anh ta là trở thành một người tốt có ích cho đất nước và nhân dân của mình. Có mục đích là rất quan trọng. Khi học tập, quan trọng là phải bền bỉ và không được từ bỏ trong bất cứ hoàn cảnh nào.”

Cổ nhân từng tin rằng học hành là một quá trình bồi đắp đạo đức. Chìa khóa để học tập nằm trong sự quyết tâm chăm chỉ và sức bền bỉ. Học tập chuyên cần là cách tốt nhất để học tập.

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Mạnh Mẫu ba lần chuyển nhà

Mạnh Tử là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục lớn nhất Trung Quốc trong thời kỳ Xuân thu Chiến quốc. Ông đã viết bộ sách “Mạnh Tử” rất nổi tiếng và được nhân dân Trung Hoa tôn xưng là “Á thánh”, có địa vị chỉ sau Khổng Tử trong hệ tư tưởng chính thống của xã hội Trung Quốc xưa. Mạnh Tử có được thành công to lớn như vậy đều là nhờ vào mẹ ông: Mạnh Mẫu.

Mạnh Tử

Mạnh Tử từ nhỏ đã mất cha. Mẹ ông là người cần cù tiết kiệm, một đời bà ngậm đắng nuốt cay để nuôi con khôn lớn. Cuộc sống của hai mẹ con rất kham khổ nhưng bà không bao giờ sao nhãng việc chăm sóc và giáo dục con. Bà đã dạy dỗ Mạnh Tử trở thành người tài giỏi và chính ông cũng đã để lại cho đời sau những bộ sách viết về các quan điểm giáo dục con cái trong gia đình. Bà trở thành một tấm gương mô phạm về việc dạy con đã được truyền từ đời này qua đời khác.

Những thành tựu của Mạnh Tử có liên quan chặt chẽ đến sự giáo dục ban đầu của mẹ.

Cha Mạnh Tử là một nho sinh có tài. Để làm rạng danh gia đình và dòng họ, ông đã từ biệt vợ con để sang nước Tống. Ba năm sau, mẹ con Mạnh Tử nhận được một tin như sét đánh ngang tai: ông đã bỏ mạng nơi đất khách quê người. Từ đó, mẹ goá con côi bắt đầu cuộc đời đầy gập ghềnh trắc trở. Mạnh mẫu với ý chí sắt đá đã quyết tâm dùng đôi bàn tay lao động của mình để nuôi nấng và dạy dỗ con nên người.

Mẹ Mạnh Tử biết rõ rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, vì vậy bà rất chú ý đến việc tạo cho con một môi trường sống lành mạnh.

Ban đầu, gia đình Mạnh Tử vốn sống trong một ngôi làng nhỏ dưới chân núi Mã Yên. Phía sau những ngọn núi là một khu nghĩa địa. Trẻ con trong làng ngày nào cũng nhìn thấy cảnh tang ma đưa đám. Một hôm, Mạnh mẫu nhìn thấy Mạnh Tử và năm đứa trẻ khác đang bắt chước người lớn chơi trò “đám tang”. Bà rất đau lòng và trong bụng thầm nghĩ: nếu cứ tiếp tục sống ở đây thì Mạnh Tử chắc chắn không thể trở thành một đứa trẻ tốt, vì vậy phải chuyển nhà thôi.

Một thời gian sau, hai mẹ con Mạnh Tử chuyển đến sống ở một ngôi làng nhỏ tên là Miếu Hộ Doanh, cách nơi ở cũ hơn mười dặm. Nơi đây là một khu chợ mua bán nhỏ. Cứ cách vài ngày, người dân trong vùng lại đem sản phẩm đến chợ để trao đổi mua bán. Khu chợ lúc nào cũng ồn ào với những tiếng mặc cả, thậm chí là cả tiếng chửi mắng nhau.

Môi trường sống mới ở đây càng dễ dàng hấp dẫn với Mạnh Tử và Mạnh Tử đã dần bị ảnh hưởng. Mạnh Tử và mấy đứa bạn học biết được kiểu so sánh từng li từng tí. Mạnh mẫu vẫn không yên tâm về Mạnh Tử, suy nghĩ tính toán mãi vẫn phải chuyển nhà lần nữa. Mạnh mẫu không muốn con trai trở thành người ít nói, cũng không muốn con bị nhiễm thói so bì chi li, chỉ chạy theo cái lợi ở ngoài chợ. Bà nhất định phải lựa chọn cho con một môi trường phát triển tốt. Vì vậy bà lại chuyển nhà lần thứ ba đến một nơi cách Thành Châu không xa. Nhà mới tuy hơi cũ nát nhưng ở gần trường học nên Mạnh mẫu yên tâm đưa con trai đến định cư.

Do từ nhỏ đã được tiếp xúc với các nhà học giả nên Mạnh Tử đã có sự ảnh hưởng tốt. Tất cả những điều đó đã tạo cơ sở vững chắc cho Mạnh Tử học tập lễ (lễ nghi), nhạc (âm nhạc) , xạ (bắn cung) , ngự (cưỡi ngựa), thư (thư pháp), số (toán pháp) và việc trở thành học giả nổi tiếng sau này.

Môi trường sống có tác dụng đặc biệt đối với quá trình trưởng thành của mỗi con người. Môi trường sống khác nhau sẽ hình thành nên những thói quen khác nhau.

Mạnh mẫu sở dĩ ba lần phải chuyển nhà là vì muốn tạo cho con một môi trường sống tốt để con lớn lên khoẻ mạnh.

Mạnh mẫu không những cơi trọng sự ảnh hưởng của môi trường thế giới bên ngoài, mà còn biết được đạo lý “Cha mẹ là người thầy tốt nhất của con cái” và rất coi trọng việc giáo dục nhân cách phẩm hạnh của con.

Mạnh mẫu dạy Mạnh Tử: Muốn làm một người khi nói để cho người khác tin thì “nói là phải làm, làm là phải đạt kết quả”. Khi gia đình nhà họ Mạnh còn ở ngôi làng nhỏ dưới chân núi Mã Yên, nhìn thấy nhà hàng xóm giết lợn, Mạnh Tử không hiểu hỏi mẹ: “Mẹ ơi, con lợn của nhà hàng xóm đang khoẻ mạnh, tại sao lại phải giết nó đi?”, Mạnh mẫu lúc đó đang bận liền tiện mồm trả lời: “Giết cho con ăn”. Mạnh Tử rất vui, cả buổi chiều chờ được ăn thịt lợn. Mạnh mẫu để không thất hứa với con trai đã lấy một phần tiền tiết kiệm chi tiêu trong sinh hoạt sang nhà hàng xóm mua một miếng thịt đem về để cho con trai ăn thoả thích.

Lại một lần khác, khi Mạnh Tử đang đi học, hàng ngày mỗi khi tan học về nhà nhìn thấy mẹ đang dệt vải liền quẳng ngay cặp sách xuống, chuẩn bị đi chơi.

Mẹ gọi Mạnh Tử đứng lại và hỏi: “Tình hình học tập của con thế nào rồi?”. Mạnh Tử không thèm để tâm trả lời: “Vẫn như trước đây”. Mạnh mẫu thấy dáng vẻ không thèm quan tâm của con liền cầm kéo lên lập tức cắt đứt ngay mảnh vải vừa dệt và khuyên bảo nói với con: “Con sao nhãng việc học tập cũng giống như mẹ dệt vải. Bây giờ vải chưa dệt xong mà đã cắt đứt ở giữa thì sẽ không bao giờ dệt được một mảnh vải hoàn chỉnh”.


“Việc dệt vải, nhất định phải dệt từng sợi một, qua quá trình cố gắng liên tục mới có thể tích từng sợi vải thành “tấc”, tích từng “tấc” vải thành “thước”, cuối cùng mới có thể dệt thành mảnh vải hoàn chỉnh để dùng. Việc học tập cũng như vậy nếu luôn luôn cố gắng chịu khó học tập thì dần đần mới tích lũy được tri thức, mới có thành tựu, nếu không thì chẳng có tác dụng gì giống như việc dệt vải bỏ dở giữa chừng”.

Mạnh Tử nghe xong những lời của mẹ thấy rất có ích lợi cho bản thân. Từ đó Mạnh Tử chăm chỉ học tập cả ngày từ sáng đến tối, cuối cùng trở thành một nhà nho lớn trong thiên hạ.

Mạnh mẫu những năm cuối đời vẫn rất khoẻ mạnh, không bao giờ lơ là việc dạy dỗ con trai. Mạnh Tử cũng vô cùng kính yêu mẹ. Ngoài thời gian đi chu du liệt quốc, Mạnh Tử đã dành hầu hết thời gian sống bên mẹ. Để được gần mẹ Mạnh Tử không nỡ rời xa cố quốc đi tìm con đường phát triển cao hơn, mà chỉ đảm nhận một chức vị giáo sư thanh nhàn ở nước Tề.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, ba mươi năm đã qua đi, lúc này Mạnh mẫu đã đến tuổi cổ lai hy và Mạnh Tử cũng đã quá tuổi “tri thiên mệnh”. Mạnh Tử cả ngày chẳng làm việc gì, thở ngắn than dài, buồn rầu không vui. Sau khi biết được nguyên nhân, Mạnh mẫu nói cho Mạnh Tử nghe một đoạn các câu nói nổi tiếng của xưa nay.

Mấy câu nói đó đã làm cho Mạnh Tử bỗng nhiên như tỉnh ngộ. Thế là Mạnh Tử thu xếp hành lý, chuẩn bị chu du liệt quốc lần nữa. Lần đi này, Mạnh Tử đã được nhân dân các nước tôn kính và hoan nghênh chưa từng thấy. Đáng tiếc là khi Mạnh Tử nở mày nở mặt thì Mạnh mẫu lại qua đời. Khi quy táng về quê ở núi Mã Yên, bà con làng xóm đều ra đứng chung điệu ở lề đường, vô cùng đau buồn tưởng nhớ người mẹ vĩ đại này.

Mạnh mẫu là một người phụ nữ vĩ đại. Sự vĩ đại của bà không chỉ là “tinh ngũ vị, trí tửu tương, dưỡng cựu cô, phùng y thường” mà còn là “đạo làm cha mẹ và quan trọng hơn cả là biết giáo dục con theo từng giai đoạn phát triển cụ thể”.

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

Tâm đố kỵ hại mình hại người

Khoảng 20 năm trước, một nhóm học giả trẻ, những người nhận được học bổng du học tại Nhật Bản của chính phủ Trung Quốc, đã tham gia một chương trình đào tạo tiếng Nhật đặc biệt tại Đại học Ngoại ngữ Đại Liên trước khi lên đường sang Nhật Bản. Tôi là một trong số những sinh viên đó. Trong lớp của chúng tôi chỉ có ba sinh viên nữ. Hai bạn gái có vẻ ngoài bình thường, nhưng bạn còn lại có một vẻ đẹp rực rỡ. Một cách tự nhiên, bạn gái đó đã trở thành hoa khôi của lớp và được hầu hết các sinh viên nam trong lớp để ý. Do vậy, hai bạn nữ khác đã không nhận được bất kỳ sự chú ý nào. Họ cảm thấy bị bỏ quên và trở nên rất ghen tị với người bạn xinh đẹp đó.

Đại Liên nằm ở phía đông bắc Trung Quốc, nơi đây có một mùa đông cực kỳ khắc nghiệt, nhất là vào ban đêm. Bởi vì trong ký túc xá sinh viên không có phòng tắm nên vào ban đêm nếu muốn dùng phòng tắm, chúng tôi phải đi bộ một quãng đường dài dưới cái rét âm độ. Ba sinh viên nữ dùng chung một phòng tắm và nó xa hơn phòng tắm của các sinh viên nam. Một đêm, bạn sinh viên nữ xinh đẹp muốn đi nhà tắm, trong lúc vội vàng, cô ra khỏi giường chỉ với áo phông và quần soóc ngắn và vội vã đi vào phòng tắm. Tuy nhiên, khi trở về, cô thấy cửa phòng đã bị khóa từ bên trong. Cô liên tục gọi hai người bạn cùng phòng trong khi đứng bên ngoài trong nhiệt độ dưới không độ, nhưng không có ai mở cửa. Tiếng gọi lúc nửa đêm đã đánh thức nhiều sinh viên trong phòng ký túc xá nam. Nhiều bạn nam đã ra khỏi giường và nhìn ra ngoài cửa sổ. Họ nhìn thấy bạn nữ xinh đẹp đang đứng run rẩy trong gió rít, nhưng không thể đoán ra được chuyện gì đã xảy ra. Cuối cùng, do không có sự lựa chọn nào khác, sinh viên nữ đó đã lấy gạch đập vỡ cửa sổ để vào được trong phòng. Ngay cả khi vào được phòng rồi, hai người bạn cùng phòng vẫn giả vờ là đang say giấc. Kể từ đó, bạn sinh viên xinh đẹp và hai sinh viên có tâm tật đố đã trở thành kẻ thù của nhau. Họ lườm nguýt nhau mỗi khi gặp; và trong thực tế, họ không bao giờ nói một lời nào với nhau trong suốt thời gian còn lại của quá trình đào tạo.

Kỷ niệm đó đã tạo nên một ấn tượng sâu sắc trong tôi. Điều làm tôi chấn động là tâm tật đố có thể khiến người ta hủy hoại chính mình! Người Trung Quốc trong quá khứ chịu ảnh hưởng của Nho giáo, tính cách rất hướng nội, và điều này đã làm tăng trưởng tâm tật đố rất mạnh mẽ. Trong lịch sử Trung Quốc, đã xuất hiện rất nhiều nhân vật nổi tiếng với tâm tật đố. Trong số đó, Bàng Quyên và Chu Du là 2 người có tính cách ganh tỵ tật đố nổi tiếng nhất.

Tam Quốc diễn nghĩa là cuốn tiểu thuyết Trung Quốc rất nổi tiếng và là một cuốn sách pha trộn cả những sự kiện có thật lẫn hư cấu về sự đối đầu của ba vương quốc: Ngụy, Thục và Ngô. Cố sự Gia Cát Lượng (chiến lược gia vĩ đại nhất của nhà Thục Hán) ba lần chọc tức Chu Du có lẽ là phần nổi tiếng nhất của cuốn tiểu thuyết. Chu Du là một nhà quân sự và chiến lược tài ba nổi tiếng của nước Ngô. Ông được bổ nhiệm làm đại đô đốc của quân Ngô khi còn rất trẻ, 24 tuổi. Ông kêu gọi Tôn Quyền thành lập một liên minh với nước Thục để chiến đấu chống lại nước Ngụy, nước kiểm soát tất cả miền đồng bằng Bắc Trung Quốc. Mặc dù quân số bị áp đảo, quân Ngô và Thục đã đánh bại quân Ngụy trong trận Đại chiến Xích Bích năm 228 SCN. Chu Du chỉ mới 34 tuổi vào lúc đó.


Tuy nhiên, Chu Du có một khiếm khuyết lớn đó là quá tranh đấu, khiến ông trở nên nóng tính, hẹp hòi, kiêu ngạo, thiếu lý trí, và tồi tệ nhất là cực kỳ ghen tỵ với những người có tài năng hơn mình. Ông coi Gia Cát Lượng, một nhà chiến lược quân sự nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc và là quân sư nước Thục, như kẻ thù không đội trời chung với mình. Trái lại, Gia Cát Lượng được biết đến như một học giả rộng lượng, khiêm tốn, thận trọng và có tầm nhìn.

Để đánh bại sức mạnh của vương quốc thứ ba là nước Ngụy, Gia Cát Lượng sẵn lòng hợp tác với Chu Du để giành chiến thắng trong trận chiến Xích Bích. Sau khi thắng trận, thay vì khiêm tốn học hỏi từ Gia Cát Lượng, Chu Du lại luôn kiếm cơ hội để đánh bại hoặc thậm chí tìm cách sát hại Gia Cát Lượng. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng luôn khôn ngoan đi trước một bước. Ông luôn luôn có cách ứng phó hoàn hảo khiến Chu Du cảm thấy nhục nhã và tính ngạo mạn của Chu Du bị thương tổn nhiều phen. Trong trận đấu trí thất bại cuối cùng, Chu Du đã rít lên trong tuyệt vọng và chết ngay sau đó. Ngay cả trước khi qua đời, ông đã hoàn toàn bị hủy hoại bởi tâm tật đố. Trước khi chết, ông đã than rằng, “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?!” Thật sự là việc Chu Du không chịu ở vị trí thứ hai và khăng khăng bằng mọi giá luôn muốn mình đứng đầu cho thấy chấp trước nặng nề vào kiêu căng và tật đố của ông với tài năng của Gia Cát Lượng.

Bàng Quyên (một vị tướng của nước Ngụy trong thời Chiến Quốc) thậm chí còn tật đố điên cuồng hơn cả Chu Du. Bàng Quyên và Tôn Tẫn đều là học trò môn binh pháp dưới sự dìu dắt của Quỷ Cốc Tử, một nhà chiến lược binh pháp kiệt xuất sống ẩn dật trên một ngọn núi. Cả hai đều rất tài giỏi, nhưng Tôn Tẫn có phần tài năng hơn. Bàng Quyên đã xuống núi trước đó và trở thành tướng quân của nước Ngụy trước Tôn Tẫn. Vì biết rằng Tôn Tẫn có tài hơn mình, Bàng Quyên đã lo lắng rằng Ngụy Huệ Vương có thể sẽ trọng dụng và ban cho Tôn Tẫn chức vị cao hơn mình. Vì vậy, Bàng Quyên đã nghĩ ra một kế hoạch xấu xa để vu cho Tôn Tẫn vào tội phản quốc. Kết quả là Tôn Tẫn đã bị Ngụy Huệ Vương khép tội oan. Bàng Quyên đã trừng trị Tôn Tẫn bằng cách cưa hai đầu gối và xăm lên má Tôn Tẫn hai chữ “phản bội”. Để sống sót, Tôn Tẫn đã giả điên. Nhằm xác minh Tôn Tẫn có điên thật không, Bàng Quyên thậm chí đã nhốt Tôn Tẫn trong chuồng lợn và cho ăn phân lợn. Trong một lần sứ giả nước Tề qua nước Ngụy, Tôn Tẫn đã thân hành tới thuyết phục sứ giả. Thấy Tôn Tẫn có tài, sứ giả bèn đưa Tôn Tẫn về nước và Tôn Tẫn trở thành thượng khách của tướng quốc Điền Kỵ, và Tôn Tẫn đã gây ấn tượng với Tề Vương với tài năng và trí tuệ nổi bật của mình. Ông đã giành được sự tôn trọng và tin tưởng của Tề Vương, và được bổ nhiệm làm trưởng cố vấn quân sự cùng Điền Kỵ đồng chỉ huy quân đội. Tuy nhiên, để tránh sự phát hiện của Bàng Quyên, Tôn Tẫn sẽ ẩn mình trong chiếc xe ngựa che màn.

Năm 354 TCN, Ngụy Vương giao quân cho Bàng Quyên đi đánh nước Triệu. Năm 353 TCN, quân Triệu tổn thất rất nặng nề. Do vậy, Tề đã quyết định giúp Triệu. Một chiến thuật khéo léo mà Tôn Tẫn đã đưa ra là tấn công lãnh thổ Ngụy trong khi quân Ngụy đang bận rộn vây hãm Triệu, điều này buộc quân Ngụy rút lui. Chiến lược đã mang lại thành công cho nước Triệu. Quân Ngụy vội vã rút lui và gặp quân Tề ở giữa đường, mà đỉnh cao là trong trận Quế Lâm, nơi quân Ngụy đã hoàn toàn bị đánh bại. Sự kiện này đã sinh ra câu nói nổi tiếng “Vây Ngụy cứu Triệu“.

Năm 341 TCN, Triệu mang quân sang đánh Hàn, và Tề đã tìm cách để giúp Hàn. Một lần nữa Bàng Quyên và Tôn Tẫn lại gặp nhau trên chiến trường. Tôn Tẫn nghĩ ra chiến lược xuất sắc là tấn công trực tiếp vào các kinh thành của Ngụy vì quân Ngụy đã trở nên kiệt quệ sau một thời gian dài chiến đấu với quân Hàn. Một lần nữa, Bàng Quyên lại phải rút lui khỏi Hàn để cứu kinh thành. Khi Bàng Quyên trở về kinh thành của Ngụy, ông nhận thấy rằng quân Tề đã rút lui. Bị xúc phạm bởi thất bại nặng nề ở trận Quế Lâm và cuộc tấn công của Tôn Tẫn vào kinh thành, Bàng Quyên quyết định truy kích quân Tề. Ông đuổi theo quân đội của Tôn Tẫn trong ba ngày. Mỗi ngày, Bàng Quyên nhìn thấy càng ngày càng ít dấu hiệu của lửa trại trên mặt đất và vui sướng nghĩ rằng một số lượng lớn các binh sĩ Tề đã đào ngũ. Như thế, ông ta đã bước vào một cái bẫy do Tôn Tẫn đặt trong một lối đi hẹp trên một ngọn núi ở Mã Lăng. Quân đội của ông bị bao vây trong một đoạn núi hẹp, không có nơi để ẩn mình hay chạy trốn. Khi Bàng Quyên bị dồn vào đường cùng dưới một gốc cây lớn vào ban đêm, ông thắp một ngọn đuốc và tìm thấy một mảng lớn của thân cây đã bị bóc đi và có khắc dòng chữ “Bàng Quyên chết dưới cái cây này!” Đây đúng là thời điểm mà Tôn Tẫn đã đợi bấy lâu.

Khi ngọn đuốc Bàng Quyên được thắp lên chính là tín hiệu tấn công của quân Tề. Khi Tôn Tẫn nhìn thấy ánh sáng của ngọn đuốc và thấy Bàng Quyên đã đọc dòng chữ trên cây, ông hét lên ra lệnh, “Bắn!” Toàn bộ quân đội bắt đầu bắn hàng chục ngàn mũi tên theo hướng ngọn đuốc trong đêm tối. Bàng Quyên ngã quỵ với hàng trăm mũi tên trên người, ông ta giống như một con nhím trước khi tự sát. Trước khi chết, ông nói, “Hắn sẽ nổi danh sau trận đánh này!” Đương nhiên, “hắn” được ám chỉ đến chính là Tôn Tẫn. Ngay cả trong giây phút trước khi chết, Bàng Quyên vẫn quá tật đố với tài nghệ của Tôn Tẫn.

Tâm tật đố giống như một con dao có tẩm độc ở cả hai đầu. Nó làm hại đến người khác và cả người cầm dao. Khi một người phát triển tâm tật đố với người khác, anh ta sẽ bị ám ảnh bởi sự ghen tỵ của mình. Vì tật đố đến mực ngoan cố, Chu Du và Bàng Quyên đã phải kết liễu cuộc sống của chính mình.

Theo các chuyên gia y tế hiện đại, ghen tỵ có thể gây ra rất nhiều bệnh liên quan đến tim. Trong văn hóa phương Tây, ý nghĩa đạo đức trong câu chuyện Nàng Bạch Tuyết là ganh tỵ tật đố khiến người ta trở nên độc ác, và sẽ đưa đến một kết cục bi thảm. Lịch sử đã dạy chúng ta rằng những người bị điều khiển bởi sự ghen tỵ xấu xa để làm hại những người khác khá giống với việc tự dùng súng bắn lên chân của chính mình. Người với tâm tật đố sẽ tạo tiếng xấu muôn đời hoặc trở thành chuyện cười cho các thế hệ sau. Những ai muốn đề cao tâm tính của mình nên cảm thấy thực sự hạnh phúc cho những cố gắng, tài năng, vận may và chấp nhận sự thành công của người khác với một trái tim khoáng đãng bao la.

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

Đun nồi cháo gạo nóng cho người hầu

Vào thời Triều đại nhà Tống, có người tên là Dương Vạn Lý, vợ của ông ta tuổi đã ngoài 70. Bà luôn thức giậy rất sớm mặc dù trời rất lạnh. Rồi Bà nhanh chóng châm lửa đun nước sôi để làm một nồi cháo gạo lớn. Bà phải mất một thời gian khá lâu mới nấu xong được một nồi cháo gạo. Bà Dương nhẫn nại chờ đợi. Sau một hồi, mùi hương gạo thơm tỏa khắp nhà bếp và lan ra khắp cả sân nhà.


Mùi hương thân thuộc này đã đánh thức những người hầu ở Phía bên kia sân. Sau khi tắm rửa, họ đến nhà bếp để nhận một bát cháo gạo lớn và đầy ắp từ tay Bà Dương. Sau khi họ uống xong bát cháo gạo nóng, trong lòng họ cũng như toàn thân thể của họ trở nên ấm nóng lạ thường.

Người con trai của bà Dương thấy mẹ sáng nào cũng rất bận thì trong lòng lo lắng. Anh nói: “Trời thì quá lạnh, sao mẹphải lo toan giậy sớm và làm công việc khó nhọc như vậy?” Bà Dương hiền từ nói, “Mặc dù họ là những người hầu, ta cũng như cha mẹ của chúng yêu thương và lo lắng cho chúng. Bây giờ trời rất lạnh, và họ cần làm việc cho gia đình ta. Ta cho họ uống bát cháo gạo nóng cho họ ấm áp lên để chống lại cái lạnh khi làm việc.”

Văn hóa truyền thống Trung Quốc nói, “Kính trọng người già như cha mẹ, yêu mến trẻ nhỏ như con cái.” Nó dạy chúng ta biết yêu mến người khác như mình muốn được người khác yêu mến. Truyền thống kính trọng người già và yêu mến trẻ nhỏ phản ánh tư tưởng đạo đức trong văn hóa truyền thống tốt đẹp của Trung Quốc về trang trải lòng yêu thương đến mọi vật trên thế gian.

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2014

Quân tử không che giấu khuyết điểm

Một vài người thường có xu hướng che giấu khuyết điểm của họ và lo sợ sẽ bị người khác lợi dụng khi họ biết khuyết điểm của mình. Một số người còn cho rằng “Không nên vạch áo cho người xem lưng”; vì vậy, khi biết những người thân với mình đã làm sai điều gì đó và không thể đối diện với thực tế, họ sẽ bảo vệ những người đó và che đậy những điều sai trái kia. Tuy nhiên, một người quân tử thực thụ thì nên đường đường chính chính, đó mới là đức hạnh.

Cổ nhân có câu: “Đoản bất khả hộ, hộ đoản chung đoản; trường bất khả căng, căng tắc bất trường.” (Nghĩa là: Dốt không thể giấu, càng giấu càng dốt. Giỏi không thể phô [trương], phô [trương] thì không giỏi) Trong “Tả truyện: Tuyên công nhị thập niên” (Sử ký Tề Tuyên Công) viết rằng: “Nhật nguyệt chi thực, hà tổn ư minh” (Nghĩa là: Nhật thực, nguyệt thực, sao che mờ được ánh sáng?) Câu đó ngụ ý rằng hình tượng của bạn sẽ không bị tổn hại vì bạn để lộ khuyết điểm của mình. Ông Henry Hawkins, Giám đốc Quản lý của Tập đoàn Thực phẩm Henry, phát hiện ra rằng chất bảo quản trong các sản phẩm của công ty ông có độc tố, nhưng có thể giúp bảo quản thực phẩm lâu hơn. Mức độ độc hại này không quá cao, nhưng có thể gây hại cho người tiêu dùng nếu họ sử dụng chúng trong một thời gian dài. Nếu không dùng chúng, thực phẩm sẽ không giữ được lâu. Nếu kết quả thí nghiệm này được công bố, toàn ngành công nghệ thực phẩm sẽ tẩy chay công ty của ông.

Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Henry đã quyết định công bố: Các chất bảo quản này gây hại cho người dùng. Sau khi thông tin này được tiết lộ, hầu hết các hãng thực phẩm đều lên án ông và buộc tội ông có động cơ xấu. Họ đã liên kết với nhau để tẩy chay các sản phẩm của Tập đoàn Thực phẩm Henry, đẩy tập đoàn này vào một tình cảnh vô cùng nguy khốn.

Mối bất hòa này đã kéo dài trong suốt 4 năm. Hawkins đã tổn thất rất nhiều tiền vì hành động trung thực và dũng cảm này, nhưng ông đã trở nên nổi tiếng với tất cả các hộ gia đình ở Mỹ. Chính phủ bắt đầu ủng hộ chính sách của công ty ông. Sau đó, các sản phẩm của Tập đoàn Thực phẩm Henry đã trở thành những sản phẩm được khách hàng tín nhiệm nhất. Công ty của ông đã nhanh chóng khôi phục và mở rộng. Không lâu sau, Hawkins đã trở thành một lãnh đạo xuất sắc trong ngành công nghiệp thực phẩm.


Lâm Bô triều đại nhà Tống đã viết trong cuốn Tỉnh tâm lục (Nhật ký giải ưu phiền) như sau: “Người biết sửa sai thì vẫn là bậc quân tử, người không biết sửa sai chỉ là kẻ tiểu nhân”. Che giấu khuyết điểm cũng tựa như việc không đến gặp bác sỹ khi bị bệnh, và chỉ càng làm sự tình xấu đi. Thừa nhận khuyết điểm và nhanh chóng chỉnh sửa chúng sẽ làm giảm tổn thất tới mức tối thiểu. Có khuyết điểm không phải là điều đáng sợ.

Điều đáng sợ là người ta hành xử tùy tiện mà không chịu nhận sai. Che giấu cũng chỉ được trong chốc lát chứ không thể kéo dài mãi mãi. Những hành vi gian lận là không phù hợp với nguyên lý của vũ trụ; cứ làm việc xấu mãi, tất sẽ gặp báo ứng. Một người nên hành xử đường đường chính chính, như thế mới có thể được người khác nể trọng. Nó cũng sẽ giúp người đó tu luyện và thăng hoa cảnh giới tư tưởng của mình.

Thứ Hai, 17 tháng 3, 2014

Dùng Đức thu phục nhân tâm

Vào cuối thời Đông Hán, đất Trung Hoa bị chia làm 3 nước: Ngụy, Thục và Ngô. Vua nước Thục là Lưu Bị trước lúc băng hà đã để lại di chúc căn dặn Thừa tướng Gia Cát Lượng phải đánh chiếm miền Bắc và phục hưng nước Hán.

Vào lúc ấy, thống lĩnh của quân miền Nam là Mạnh Hoạch đem đại binh xâm lấn nước Thục. Gia Cát Lượng lập tức điểm quân đi đánh giặc.

Khi quân đội tiến vào lãnh thổ phía Nam và giao chiến với đạo quân của Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng dùng mưu giả thua bỏ chạy. Mạnh Hoạch dẫn quân đuổi theo, kết quả rơi vào mai phục của Gia Cát Lượng. Quân miền Nam bại trận bỏ chạy tứ tán, Mạnh Hoạch bị bắt sống.

Mạnh Hoạch bị áp giải đến đại bản doanh của Gia Cát Lượng. Ông ta nghĩ thầm: Lần này ta chết chắc rồi. Nhưng ngạc nhiên thay, Gia Cát Lượng lệnh cho lính cởi trói và ân cần khuyên bảo ông đầu hàng. Mạnh Hoạch không chịu, nói:“Thắng bại là chuyện thường của binh gia. Ta đã không cẩn thận trúng kế của ngươi, như thế làm sao tâm phục được?”.


Gia Cát Lượng không ép buộc ông ta. Thay vào đó lại cùng với Mạnh Hoạch cưỡi ngựa vòng quanh các trại lính của mình. Ông hỏi Mạnh Hoạch: “Ông xem quân đội của ta thế nào?”. Mạnh Hoạch kiêu ngạo trả lời: “Trước kia ta không biết rõ các ngươi, cho nên thất bại. Hôm nay ngươi để cho ta nhìn thấy trận thế của các ngươi, ta xem bất quá cũng chỉ là như thế thôi. Trận thế như vậy, muốn đánh doanh trại các ngươi cũng không khó gì”. Gia Cát Lượng cười sang sảng nói:“Vậy hãy mau mau trở về và chuẩn bị cho tốt, lần sau chúng ta sẽ đánh lại vậy”.

Sau khi được thả, Mạnh Hoạch chuẩn bị quân đội và lần nữa đánh nhau với quân Thục. Nhưng ông ta là người hữu dũng vô mưu, làm sao sánh nổi với Gia Cát Lượng. Một lần nữa ông ta lại bị bắt. Tuy vậy, Mạnh Hoạch vẫn không chịu đầu hàng. Gia Cát Lượng lại thả ông ta ra.

Quan binh nước Thục đều không hiểu gì cả. Sao lại có thể thả kẻ thù ra dễ dàng như vậy được? Gia Cát Lượng tự đã có chủ ý: “Nếu muốn biên giới phía Nam nước Thục được thái bình dài lâu, thì lấy Đức thu phục mới có thể thật sự làm cho người ta tâm phục. Nếu dùng vũ lực mà áp chế thì tương lai lại dễ sinh chuyện”. Quan lại thảy đều khâm phục tầm nhìn của ông.

Khi Mạnh Hoạch trở về, người em trai là Mạnh Ưu hiến kế cho anh. Lúc nửa đêm, Mạnh Ưu cầm một đạo quân đến doanh trại quân Hán và giả vờ đầu hàng. Mặc dù biết rõ ý đồ của ông ta từ đầu, Gia Cát Lượng vẫn thưởng cho binh lính của ông ta rất nhiều rượu ngon. Kết quả là, quân của Mạnh Ưu đều uống say bí tỉ cả. Lúc đó, Mạnh Hoạch theo kế hoạch cầm quân tới đánh nhưng không ngờ lại tự chui vào lưới. Lại bị bắt. Nhưng ông ta nhất định vẫn không chịu phục. Gia Cát Lượng lần thứ 3 thả hổ về rừng.

Trở về đại bản doanh, Mạnh Hoạch lập tức chỉnh đốn quân đội, chờ thời cơ phát binh. Một ngày đột nhiên có thám tử về báo:“Gia Cát Lượng đang một mình đi quan sát trận tiền”. Mạnh Hoạch rất mừng rỡ lập tức dẫn người đi bắt Gia Cát Lượng. Không ngờ lần này lại trúng kế và bị bắt lần thứ tư. Biết Mạnh Hoạch vẫn chưa chịu tâm phục, Gia Cát Lượng lại thả ông ta ra.

Một viên đại tướng dưới trướng Mạnh Hoạch là Dương Phong, vốn đi theo Mạnh Hoạch, trải qua mấy lần bị bắt mấy lần được thả, trong lòng mười phần khâm phục tài trí và lòng độ lượng của Gia Cát Khổng Minh. Để trả ơn, ông ta và vợ mình chuốc rượu Mạnh Hoạch cho say và bắt trói dẫn đến doanh trại quân Hán. Mạnh Hoạch bị bắt lần thứ 5 nhưng vẫn không chịu phục và bảo rằng đó là vì ông ta bị tiểu nhân phản bội. Gia Cát Lượng thế là lại thả ông ta ra lần thứ 5, bảo ông ta lại chuẩn bị đánh nữa.

Lần ấy trở về, Mạnh Hoạch không dám tự ý, bèn nhập quân với Mộc Lộc đại vương. Doanh trại của tướng Mộc Lộc cực kỳ biệt lập. Gia Cát Lượng cầm quân, vượt nhiều khó khăn mới đến được đó. Tuy nhiên, quân miền Nam dùng dã thú để tham chiến. Kết quả là quân Hán bại trận. Trở về doanh, Gia Cát Lượng tạo ra những con thú giả to lớn hơn đám thú thật kia nhiều lần. Khi tái chiến với quân của tướng Mộc Lộc, bầy thú thật sợ hãi khi trông thấy những con thú giả, không dám tham chiến nữa. Lần ấy quân Hán thắng trận và Mạnh Hoạch lại bị bắt. Mặc dù Mạnh Hoạch vẫn không chịu phục, nhưng lần này không có gì để biện hộ nữa. Gia Cát Lượng vẫn thả ông ta về.

Mạnh Hoạch vừa được thả ra, đã lại nhập bọn với nước Ô Qua. Vua nước Ô Qua là Ngột Đột Cốt có một quân đội hùng mạnh thiện chiến. Đội quân này được trang bị bộ giáp nhẹ mà đao thương bất nhập, gọi là “Đằng giáp quân”. Gia Cát Lượng sớm đã có chuẩn bị rồi, vì thế lần này dùng hỏa công đánh bại Đằng giáp quân của nước Ô Qua. Mạnh Hoạch bị bắt lần thứ 7, quỳ trước trướng. Gia Cát Lượng lệnh cởi trói cho ông ta, sai người đem thả tại trướng khác và thết đãi ông ta cùng thuộc hạ tại đó.

Mạnh Hoạch đang ăn uống cùng huynh đệ và thê tử thì một người vào trướng báo với ông ta: “Thừa tướng xấu hổ, không dám gặp Ngài. Thừa tướng đặc biệt lệnh cho tôi thả Ngài trở về chiêu mộ nhân mã để quyết phân thắng bại. Bây giờ Ngài có thể trở về”.

Mạnh Hoạch rơi nước mắt mà nói: “Chưa từng thấy ai bị bắt 7 lần đều được thả cả 7 lần. Dù là người nước nhỏ, nhưng tôi cũng biết chút ít lễ nghĩa. Làm sao tôi có thể vô liêm sỷ như thế được?”. Vì vậy lệnh cho thuộc hạ thảy cùng quỳ dưới trướng, nói lời tạ lỗi: “Thừa tướng có uy của Trời. Chúng tôi sẽ không trở lại nữa!”. Gia Cát Lượng mời Mạnh Hoạch dự đại yến tiệc. Ông trả tất cả những vùng đất chinh phạt được cho Mạnh Hoạch. Mạnh Hoạch và thuộc tướng đều rất biết ơn và vui vẻ đi về. Mạnh Hoạch trở về còn thuyết phục các bộ lạc khác toàn bộ cùng đầu hàng hết.

Chúng tướng hỏi Gia Cát Lượng: “Giờ đây ta đã chinh phạt được miền Nam. Ta có nên gửi quan binh đến đó để cai trị không?”.

Gia Cát Lượng nói: “Nếu ta phái quan lại tới thì cũng phải để lại binh sỹ. Đó không chỉ là lãng phí nhân lực, quân lương, mà trọng yếu là dễ khiến lòng người không tin tưởng lẫn nhau. Chúng ta để các bộ lạc tự mình quản lý, người Hán và các bộ lạc đều bình an vô sự, chẳng phải là rất tốt sao?”. Mọi người đều cho rằng phải.

Gia Cát Lượng khao quân xong, chuẩn bị trở về nước Thục. Mạnh Hoạch dẫn toàn bộ thuộc tướng và thủ lĩnh các bộ tộc đi hộ tống ông suốt chặng đường về Vĩnh Xương. Gia Cát Lượng dặn dò Mạnh Hoạch cần phải chăm lo cho dân chúng, chớ để lỡ mất vụ mùa, nói xong trở về, bọn người Mạnh Hoạch khóc mà bái biệt. Suốt đường về, Gia Cát Lượng đem hạt giống và nông cụ tặng cho nông dân. Người dân miền Nam hết sức biết ơn. Họ xây đền thờ ông, bốn mùa thờ cúng, tôn kính ông như người cha nhân từ. Họ cũng cung cấp thuốc men, canh ngưu chiến mã, cùng các đồ quân dụng.

Nhiều năm sau, Gia Cát Lượng qua đời. Vua nước Tấn là Tấn Vũ Đế, Tư Mã Viêm, thống nhất tam quốc, đem chủ nước Thục là Lưu Thiện đến thành Lạc Dương. Mạnh Hoạch vẫn cảm ân đức của Gia Cát Lượng, cho nên mỗi năm vào ngày lập hạ đều dẫn thân binh hộ vệ đến trước thành Lạc Dương để được nhìn thấy Lưu Thiện. Mạnh Hoạch cũng khẩn cầu Đế vương đối đãi tốt với Lưu Thiện và người dân nước Thục, khiến Tấn Vũ Đế hết sức cảm động.

Gia Cát Lượng bằng trí tuệ và đức nhẫn nại phi thường đối với Mạnh Hoạch 7 lần bắt 7 lần thả, cuối cùng khiến cho ông ta tâm phục khẩu phục. Bởi vậy có thể thấy được, từ cổ chí kim các bậc Đại trí đều lấy Đức mà thu phục người khác. Người ta phải là người nhân từ trước khi làm nên việc gì. Đó cũng là nguyên tắc chung cho những người quan viên, trước tiên phải kiến lập Uy đức; trị quốc an dân thì phải có chính tâm chính khí, phụng sự việc công không một chút tư tâm, như vậy mới có thể khiến nhân tâm quy phục, thiên hạ thái bình. Kẻ dùng bạo lực nhất thời có thể trấn áp người ta, nhưng không thể tồn tại lâu dài, khiến thế nhân cuối cùng sinh tâm oán giận, nhất định sẽ bị lịch sử đào thải.

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2014

Vì sao người lương thiện cả đời gặp nỗi buồn và trắc trở

Tôi đã tìm một người thầy thông thái và đạo hạnh xin chỉ bảo:
-Vì sao những người lương thiện như con lại thường xuyên cảm thấy khổ, mà những người ác lại vẫn sống tốt vậy?

Thầy hiền hòa nhìn tôi trả lời:
- Nếu một người trong lòng cảm thấy khổ, điều đó nói lên rằng trong tâm người này có tồn tại một điều ác tương ứng. Nếu một người trong nội tâm không có điều ác nào, như vậy, người này sẽ không có cảm giác thống khổ. Vì thế, căn cứ theo đạo lý này, con thường cảm thấy khổ, nghĩa là nội tâm của con có tồn tại điều ác, con không phải là một người lương thiện thật sự. Mà những người con cho rằng là người ác, lại chưa hẳn là người thật sự ác. Một người có thể vui vẻ mà sống, ít nhất nói rõ người này không phải là người ác thật sự.

Có cảm giác như bị xúc phạm, tôi không phục, liền nói:
-Con sao có thể là người ác được? Gần đây, tâm con rất lương thiện mà!

Thầy trả lời:
-Nội tâm không ác thì không cảm thấy khổ, con đã cảm thấy khổ, nghĩa là trong tâm con đang tồn tại điều ác. Con hãy nói về nỗi khổ của con, ta sẽ nói cho con biết, điều ác nào đang tồn tại trong con.

Tôi nói:
-Nỗi khổ của con thì rất nhiều! Có khi cảm thấy tiền lương thu nhập rất thấp, nhà ở cũng không đủ rộng, thường xuyên có “cảm giác thua thiệt” bởi vậy trong tâm con thường cảm thấy không thoải mái, cũng hy vọng mau chóng có thể cải biến tình trạng này; trong xã hội, không ít người căn bản không có văn hóa gì, lại có thể lưng quấn bạc triệu, con không phục; một trí thức văn hóa như con, mỗi tháng lại chỉ có một chút thu nhập, thật sự là không công bằng; người thân nhiều lúc không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái…

Cứ như vậy, lần lượt tôi kể hết với thầy những nỗi thống khổ của mình.

Thầy gật đầu, mỉm cười, một nụ cười rất nhân từ đôn hậu, người từ tốn nói với tôi:
- Thu nhập hiện tại của con đã đủ nuôi sống chính con và gia đình. Con còn có cả phòng ốc để ở, căn bản là đã không phải lưu lạc nơi đầu đường xó chợ, chỉ là diện tích hơi nhỏ một chút, con hoàn toàn có thể không phải chịu những khổ tâm ấy.
-Nhưng, bởi vì nội tâm con có lòng tham đối với tiền tài và của cải, cho nên mới cảm thấy khổ. Loại lòng tham này là ác tâm, nếu con có thể vứt bỏ ác tâm ấy, con sẽ không vì những điều đó mà cảm thấy khổ nữa.

- Trong xã hội có nhiều người thiếu văn hóa nhưng lại phát tài, rồi con lại cảm thấy không phục, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị cũng là một loại ác tâm. Con tự cho mình là có văn hóa, nên cần phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngạo mạn. Tâm ngạo mạn cũng là ác tâm. Cho rằng có văn hóa thì phải có thu nhập cao, đây chính là tâm ngu si; bởi vì văn hóa không phải là căn nguyên của sự giàu có, kiếp trước làm việc thiện mới là nguyên nhân cho sự giàu có của kiếp này. Tâm ngu si cũng là ác tâm!

- Người thân không nghe lời khuyên của con, con cảm thấy không thoải mái, đây là không rộng lượng. Dẫu là người thân của con, nhưng họ vẫn có tư tưởng và quan điểm của riêng mình, tại sao lại cưỡng cầu tư tưởng và quan điểm của họ bắt phải giống như con? Không rộng lượng sẽ dẫn đến hẹp hòi. Tâm hẹp hòi cũng là ác tâm.

Sư phụ tiếp tục mỉm cười:
- Lòng tham, tâm đố kỵ, ngạo mạn, ngu si, hẹp hòi, đều là những ác tâm. Bởi vì nội tâm của con chứa đựng những ác tâm ấy, nên những thống khổ mới tồn tại trong con. Nếu con có thể loại trừ những ác tâm đó, những thống khổ kia sẽ tan thành mây khói.”

- Con đem niềm vui và thỏa mãn của mình đặt lên tiền thu nhập và của cải, con hãy nghĩ lại xem, căn bản con sẽ không chết đói và chết cóng; những người giàu có kia, thật ra cũng chỉ là không chết đói và chết cóng. Con đã nhận ra chưa, con có hạnh phúc hay không, không dựa trên sự giàu có bên ngoài, mà dựa trên thái độ sống của con mới là quyết định. Nắm chắc từng giây phút của cuộc đời, sống với thái độ lạc quan, hòa ái, cần cù để thay thế lòng tham, tính đố kỵ và ích kỷ; nội tâm của con sẽ dần chuyển hóa, dần thay đổi để thanh thản và bình an hơn.

-Trong xã hội, nhiều người không có văn hóa nhưng lại giàu có, con hãy nên vì họ mà vui vẻ, nên cầu chúc họ càng giàu có hơn, càng có nhiều niềm vui hơn mới đúng. Người khác đạt được, phải vui như người đó chính là con; người khác mất đi, đừng cười trên nỗi đau của họ. Người như vậy mới được coi là người lương thiện! Còn con, giờ thấy người khác giàu con lại thiếu vui, đây chính là tâm đố kị. Tâm đố kị chính là một loại tâm rất không tốt, phải kiên quyết tiêu trừ!”

- Con cho rằng, con có chỗ hơn người, tự cho là giỏi. Đây chính là tâm ngạo mạn. Có câu nói rằng: “Ngạo mạn cao sơn, bất sinh đức thủy” (nghĩa là: ngọn núi cao mà ngạo mạn, sẽ không tạo nên loại nước tốt) người khi đã sinh lòng ngạo mạn, thì đối với thiếu sót của bản thân sẽ như có mắt mà không tròng, vì vậy, không thể nhìn thấy bản thân có bao nhiêu ác tâm, sao có thể thay đổi để tốt hơn. Cho nên, người ngạo mạn sẽ tự mình đóng cửa chặn đứng sự tiến bộ của mình. Ngoài ra, người ngạo mạn sẽ thường cảm thấy mất mát, dần dần sẽ chuyển thành tự ti. Một người chỉ có thể nuôi dưỡng lòng khiêm tốn, luôn bảo trì tâm thái hòa ái từ bi, nội tâm mới có thể cảm thấy tròn đầy và an vui.

-Kiếp trước làm việc thiện mới chính là nguyên nhân cho sự giàu có ở kiếp này, (trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu). Mà người thường không hiểu được nhân quả, trồng dưa lại muốn được đậu, trồng đậu lại muốn được dưa, đây là thể hiện của sự ngu muội. Chỉ có người chăm học Phật Pháp, mới có được trí huệ chân chính, mới thật sự hiểu được nhân quả, quy luật tuần hoàn của vạn vật trong vũ trụ, nội tâm mới có thể minh tỏ thấu triệt. Để từ đó, biết làm thế nào lựa chọn tư tưởng, hành vi và lời nói của mình cho phù hợp. Người như vậy, mới có thể theo ánh sáng hướng đến ánh sáng, từ yên vui hướng đến yên vui.”

-Bầu trời có thể bao dung hết thảy, nên rộng lớn vô biên, ung dung tự tại; mặt đất có thể chịu đựng hết thảy, nên tràn đầy sự sống, vạn vật đâm chồi! Một người sống trong Thế giới này, không nên tùy tiện xem thường hành vi và lời nói của người khác. Dẫu là người thân, cũng không nên mang tâm cưỡng cầu, cần phải tùy duyên tự tại! Vĩnh viễn dùng tâm lương thiện giúp đỡ người khác, nhưng không nên cưỡng cầu điều gì.

-Nếu tâm một người có thể rộng lớn như bầu trời mà bao dung vạn vật, người đó sao có thể khổ đây?

Vị thầy khả kính nói xong những điều này, tiếp tục nhìn tôi với ánh mắt đầy nhân từ và bao dung độ lượng.

Ngồi im lặng hồi lâu…xưa nay tôi vẫn cho mình là một người rất lương thiện, mãi đến lúc này, phải! chỉ đến lúc này, tôi mới biết được trong tôi còn có một con người rất xấu xa, rất độc ác! Bởi vì nội tâm của tôi chứa những điều ác, nên tôi mới cảm thấy nhiều đau khổ đến thế. Nếu nội tâm của tôi không ác, sao tôi có thể khổ chứ?

Xin cảm tạ thầy, nếu không được người khai thị dạy bảo, con vĩnh viễn sẽ không biết có một người xấu xa như vậy đang tồn tại trong con!

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

Kẻ trộm cũng có đạo

Những năm Càn Long triều đại nhà Thanh, huyện Sùng Đức (xưa gọi là huyện Thạch Môn), tỉnh Chiết Giang, có một viên tri huyện là Chương Thanh, xuất thân là người đọc sách, học vấn uyên thâm, làm quan thanh liêm, thanh danh cực tốt trong dân chúng. Chương Thanh đến huyện Sùng Đức đảm nhiệm chỉ có mấy năm, huyện đã trở nên an bình trật tự, dân chúng an cư lạc nghiệp, đêm không cần khóa cửa.



Lúc này, khắp huyện kế bên trộm án xảy ra liên tục, nhân tâm nhốn nháo. Bên trên có văn thư xuống, điều Chương Thanh sang huyện lân cận làm tri huyện, chỉnh đốn tình hình ở đó. Chương Thanh một mình đến huyện ấy nhậm chức, lập tức sử dụng các biện pháp nghiêm khắc kịp thời. Kể cũng lạ, từ khi Chương Thanh đến nhậm chức, đạo tặc liền im hơi lặng tiếng, không còn xảy ra vụ trộm nào nữa. Chương Thanh rất nhanh chóng chỉnh đốn cả huyện trở nên an bình hòa hợp.

Mấy tháng sau, Chương Thanh đưa người nhà đến ở cùng. Ba năm nhậm chức đã qua, Chương Thanh cùng gia quyến lên thuyền trở về quê. Dân chúng tự nguyện tụ tập tại bến để tiễn Chương Thanh. Chương Thanh từ biệt mọi người, đột nhiên trước mắt chợt lóe lên một bóng người, đôi kính cận đang mang đã không cánh mà bay. Chương Thanh chấn động, suýt nữa ngã xuống sông, may mà phu thuyền nhanh tay giữ chặt. Kính mắt không cánh mà bay, khiến Chương Thanh nghĩ mãi không lý giải được, nói rằng bị trộm mất, thì đôi kính ấy không đáng tiền, trộm nó làm gì? Nói là đánh mất, sao lại không có chút cảm giác nào cả, ông không khỏi cứ mãi lắc đầu, cảm thấy hết sức kỳ quái. Cũng may trong hành lý vẫn còn cặp kính khác, chưa đến nỗi không còn nhìn được nữa. Vì vậy, ông phất tay, bảo phu thuyền bắt đầu đi.

Buổi tối hôm đó, thuyền tạm dừng đỗ qua đêm tại một trấn nhỏ ở ranh giới của 2 huyện. Sáng sớm ngày hôm sau, Chương Thanh đột nhiên phát hiện 10 cái rương gỗ lớn đặt ở trong thuyền tất cả đều đã biến mất không còn dấu vết. Đó chính là toàn bộ gia sản, Chương Thanh không khỏi kinh hãi há miệng trợn mắt, “Bọn đạo tặc to gan lớn mật, ta chưa rời khỏi huyện, chúng đã liền nổi dậy hoành hành, còn trộm cắp ngay trên đầu ta, thật sự là ghê tởm! Như thế xem ra cặp kính bị mất hôm qua dám chắc cũng chính là bọn trộm này lấy mất”.

Làm sao bây giờ? Chương Thanh suy nghĩ: “Đám đạo tặc này trộm được rồi, chắc hẳn đã xa chạy cao bay, biết bọn chúng ở đâu mà tìm, hỡi ôi, tự dằn lòng mà quên đi vậy”. Nghĩ thế, Chương Thanh thở dài, bảo nhà thuyền rời bến.

Thuyền đi 3 ngày, rốt cục đã về đến quê hương của Chương Thanh một cách bình an. Chương Thanh nhìn phía xa xa, chỉ thấy trên bến chỉnh tề xếp đủ 10 cái rương lớn, nhìn qua thật là quen thuộc, trông giống như mấy cái rương mà mình đã bị đánh cắp. Chương Thanh cảm thấy mười phần kỳ quái, vội vàng cập bến, nhanh chân nhảy lên bờ chạy tới mà xem. Trời hỡi, quả nhiên là mấy cái rương của mình, thật là may mắn! Trên cái rương còn có một phong thư, chặn lên trên là cặp kính vốn đã không cánh mà bay lúc trước.

Chương Thanh vừa mừng vừa sợ, lúc này mở phong thư ra, chỉ thấy trong thư nói rằng:

Gửi Chương đại nhân:

“Bọn tôi là một nhóm đạo tặc, vào thời ông nhậm chức, chúng tôi ái mộ thanh danh liêm khiết chính trực của ông, chưa bao giờ trộm cắp tại huyện mà ông cai quản. Nhưng là, lúc ông rời khỏi huyện có mang theo 10 chiếc rương gỗ rất lớn, không khỏi khiến chúng tôi hoài nghi không rõ ông có phải là vị thanh quan như thế hay không. Cho nên, bọn tôi đầu tiên lấy trộm đôi kính sau lại lấy trộm mấy cái rương gỗ, cũng là để cảnh báo cho ông thấy. Mở xem tất cả mấy cái rương gỗ, thấy tài sản của ông ngoài sách với sách ra, tất cả có chưa đến 32 ngân lượng. Mọi người thường nói: “Nhất Nhâm Thanh Tri Phủ, Thập Vạn Tuyết Hoa Ngân” (một viên tri phủ thanh liêm nhậm chức, cũng có được 10 vạn ngân lượng). Ông làm huyện lệnh nhiều năm, nhưng vẫn nghèo như không. Thấy rõ ông đích thực là một vị quan thanh liêm, bách tính đã không nhìn lầm ông. Bọn tôi lúc trước đã mạo phạm nhiều, thật sự xin lỗi, đặc biệt xin trả lại những vật đã lấy trộm trước kia, mong được Đại nhân bao dung tha thứ”.

Nguyên lai là như thế! Chương Thanh trong lòng cảm thán, không khỏi lẩm bẩm: “Thật là! Thực sự là đạo tặc cũng có đạo!”

Người thời cổ có tiêu chuẩn đạo đức rất cao, tin Trời tin Thần, tiêu chuẩn thiện ác phổ quát là từ nội tâm của con người. Người xấu làm việc xấu vẫn có một thước đo chuẩn mực cho riêng mình. Những việc có liên quan đến vấn đề lương tâm, hoặc đối với người Đại thiện cùng với thanh quan, những đạo tặc có lương tri đều không dám xâm phạm.

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2014

Kính lão đắc thọ

Thành ngữ "Kính lão đắc thọ" rất quen thuộc trong dân gian Việt Nam. Nó thể hiện một truyền thống tốt đẹp về cung kính, lễ phép và tôn trọng người cao tuổi, là một nét đẹp văn hóa. Đức tính khiêm nhường, cung kính không chỉ giúp chúng ta trưởng thành hơn và còn có thể tiếp thu được rất nhiều tri thức quý báu. Sau đây, chúng ta cùng theo dõi một số câu chuyện để hiểu hơn về thành ngữ "kính lão đắc thọ" này nhé.
Một công ty bách hóa đăng báo tuyển dụng nhân viên quản lý. Trong vòng ba ngày có hơn tám mươi người đến ứng tuyển, hầu như ai cũng cầm theo một lá thư giới thiệu. Vị giám đốc phỏng vấn tất cả ứng viên và sau cùng quyết định chọn một chàng thanh niên dù anh ta không có thư giới thiệu. Khi những người khác bày tỏ sự ngạc nhiên, ông giám đốc giải thích: “Những người khác chỉ mang theo một bức thư giới thiệu, nhưng chàng trai này mang theo ba bức thư. Khi bước vào phòng tôi, anh ta nhẹ nhàng đóng cửa; đây là bức thư thứ nhất giới thiệu sự cẩn thận. Trong suốt buổi nói chuyện, giọng anh ta rõ ràng và các câu trả lời đều thứ tự, hợp lý; đó là bức thư thứ hai giới thiệu sự thông minh. Thấy một người lớn tuổi đi vào, anh ta nhanh nhẹn đứng dậy; đó là bức thư thứ ba giới thiệu sự lễ độ. Ba lá thư giới thiệu của anh ấy được biểu hiện ngay trong hành động; còn lá thư của những người khác chỉ được viết trên giấy”.


George Bernard Shaw là một nhà soạn kịch nổi tiếng người Anh. Ông sanh ra trong gia đình trung lưu nên bị nhiều người thuộc dòng dõi quý tộc coi thường. Có lần ông được mời đến dự dạ hội, một người trẻ tuổi ăn mặc bảnh bao nhìn thấy ông liền ngạo mạn hỏi: “Tôi nghe nói cha ông là thợ may, có đúng thế không?”

Shaw mỉm cười trả lời: “Đúng như ngài nói”. Người đó nói tiếp: “Liệu ông có tính chuyện trở thành thợ may không?”. Mặc dù đây là lời lăng mạ đối với Shaw, ông không hề tỏ chút vẻ giận dữ. Thay vào đó, ông hỏi lại: “Tôi nghe nói cha ngài là một quý ông lịch sự?”. Anh ta trả lời: “Hiển nhiên rồi”. Shaw hỏi: “Liệu ngài có muốn trở thành một người lịch sự như cha ngài không?”. Anh chàng kia không biết kính lão tôn hiền, do đó tự chuốc lấy sự nhục nhã vào thân.

Trái lại, trong thời nhà Hán ở Trung Quốc có một người tên là Trương Lương. Ông thành tựu được sự nghiệp lớn vì biết kính lão tôn hiền. Ngày nọ, ông đi ngang qua cầu. Phía bên kia cầu có một ông lão đang ngồi. Ông lão cố ý ném chiếc giày xuống dưới cầu và nói Trương Lương đi nhặt lên. Ông lão lặp lại hành động đó đến ba lần, và Trương Lương vẫn kiên nhẫn đi nhặt giày ba lần rồi giúp ông lão xỏ giày vào. Vì thế, anh đã được ông lão - chính là Hoàng Thạch Công khen ngợi và thưởng cho một cuốn sách. Nhờ cuốn sách quý này, ông làm quân sư giúp Lưu Bang thắng nhiều trận đánh, sau trở thành một trong ba đại khai quốc công thần của Hán Triều.


Từ những câu chuyện trên, ta có thể thấy người có đạo đức học thức thì càng kính trọng người già và tôn quý người hiền tài, sau này anh ta càng thành tựu. Ngược lại, người nông cạn không có học thức, anh ta càng ngạo mạn và kết cục có thể hứng chịu nhục nhã. Chúng ta luôn giữ tâm cẩn trọng, cung kính và từ bi khi đối nhân xử thế thì mới thật sự làm lợi ích cho người khác và cho chính bản thân mình. Nếu chúng ta tuổi nhỏ chưa hiểu biết nhiều, tất nhiên phải kính lão tôn hiền. Nếu chúng ta có một vài thành tựu thì vẫn phải nhún nhường, không nên phô trương. Đức tính cung kính, khiêm nhường, kính trọng người lớn tuổi sẽ giúp chúng ta học hỏi thêm nhiều điều hay.

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014

Lùi lại thực ra là tiến tới

Có một câu chuyện rất có ý nghĩa về “lấy” và “cho” trong Phật giáo. Câu chuyện kể rằng sau khi hai người chết, A và B, họ được đưa đến Diêm Vương (Vua Địa ngục). Diêm Vương bèn mở Sách Ghi Điều tốt và Điều xấu ra xem để quyết định cho họ đầu thai. Ngài cho mỗi người được chọn một trong hai điều: một là “sống để cho” và hai là “sống để lấy”.

A rất tham lam và muốn có một cuộc sống không bị khổ cực vì thế anh ta lập tức chọn “sống để lấy”; B không vì thế mà buồn rầu mặc dầu A “lấy trước”. B nghĩ rằng “sống để cho có thể giúp mọi người và biết được ý nghĩa đời sống thật sự! Sau khi nghe hai lời ước nguyện, Diêm Vương làm một khế ước với số mạng. Ông ta nói với B “Vì ngươi chọn sống để cho, vậy ngươi sẽ là một người giàu trong kiếp tới và ngươi sẽ hiến tiền của cho người nghèo”. Còn điều gì sẽ xảy ra cho A? Vì anh ta muốn có một đời sống chỉ nhận của người khác, nên Diêm Vương phán rằng ngươi sẽ trở thành một kẻ ăn mày và sống dựa vào lòng nhân của người khác trong kiếp tới của ngươi.

Từ câu chuyện này nói lên sự mất và được của chúng ta không thể quyết định chỉ từ trên bề mặt. Đôi khi dường như bạn được một điều gì đó, nhưng từ một khía cạnh khác, bạn có thể mất nhiều hơn.

Khi Zheng Banqiao làm quan trong triều đình, em trai của ông đã cãi lộn với hàng xóm vì vấn đề xây dựng nhà cửa. Cả hai gia đình đều không chịu nhượng bộ, vì thế họ xây một bức tường ngay trước nhà họ mà đã ngăn con đường. Em trai của Zheng viết thư cho anh ta và muốn được giúp đỡ để thắng vụ này. Tuy nhiên, Zheng Banqiao trả lời cho em bằng một bài thơ:

Từ xa, lá thư đến vì một bức tường,
Chỉ ba tấc đất, em không nhường cho họ sao?
Vạn Lý Trường Thành vẫn còn đó
Nào ai thấy mặt người xây Tần Thủy Hoàng?

Người hàng xóm biết được sự việc, và rất cảm động. Cả hai đều lùi lại ba tấc đất, vì thế con đường ở giữa gọi là “Con đường sáu tấc”.

Thái độ của Zheng Banqiao đối với vấn đề này nói lên một số điều cho chúng ta. Dựa trên sự nhẫn nhục, người ta có thể lùi lại một bước và sẽ có thể giữ được trạng thái ôn hoà, mà nó sẽ đưa đến một tâm trí khôn ngoan hơn và sáng tỏ hơn. Rồi thì những xích mích sẽ được giải toả và trở thành cơ hội và vì thế sẽ có một thế giới tươi đẹp hơn.

Phật Di Lặc có một câu kệ nổi tiếng:

Hạt lúa nảy mầm trong tay và cấy xuống đất,
Cúi đầu xuống, trời xanh hiển hiện trong đáy nước,
Kinh là để có những cảm nhận đúng về lục căn (*)
Lùi lại thật sự là tiến tới.

Thực tế là những người nông dân phải nhìn xuống và bước lùi lại để cấy lúa, mà có ý là những thành công có từ cúi đầu xuống và lùi lại. Nó nói lên một triết lý sâu sắc về “lùi lại thật sự là tiến tới”. Điều này cũng tương tự như tục ngữ Trung quốc nói rằng “Đôi khi điều đạt được tốt nhất chính là mất đi”. Trong đời sống chúng ta, có rất nhiều trường hợp rút lui có nghĩa là thụ động nhưng thật ra đó là một cách tiến tới. Những câu chuyện ở trên là những ví dụ cho trường hợp này.

Ghi chú:

* Lục căn: tai, mắt, mũi, miệng, thân, ý niệm.
2 bài kệ ở trên được dịch nghĩa chứ không dịch thơ, vì được dịch lại từ
tiếng Anh.

Thứ Hai, 10 tháng 3, 2014

Cam đảm đứng về phía lẽ phải

Trong Luận Ngữ của Khổng Tử, Hiến Vấn, Hoàng đế thời Bắc Ngụy (năm 454-476), nói về một hoàng đế thời Bắc Ngụy hưởng ứng các vấn đề cơ bản của luật pháp.

Hiến Vấn giảng, “Người thiện không lo âu phiền muộn, người hiểu biết không bị mê hoặc, và người dũng cảm không ở trong sợ hãi” . Lòng dũng cảm là một đức tính quan trọng để đạt đến cảnh giới hoàn mỹ. Trong lịch sử ở cả nền văn hóa phương Tây và Trung Quốc đều có ghi chép không ít những con người dũng cảm như vậy.

Dân gian truyền rằng, có khoảng 100 môn đồ của Mặc Tử vì chân lý mà hy sinh không chút do dự dù phải mất đi sinh mệnh của mình. Có một tráng sĩ tên gọi Kinh Kha sống trong thời Chiến Quốc (năm 475-221 trước Công Nguyên). Anh được giao nhiệm vụ ám sát Hoàng đế nhà Tần trong bài hát,“Gió đổi hướng Tây thêm lạnh lẽo, ngay khi tráng sĩ ra đi vì nhiệm vụ mà từ đó không trở về”. Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ đã đau buồn vì mất quá nhiều binh sĩ và không còn mặt mũi nào để đối diện với tổ tông. Họ đều là những người dũng cảm không tham sống sợ chết. Tử Lộ, một trong những học trò yêu của Khổng Tử, có tính quả cảm, thẳng thắn. Tuy nhiên, Khổng Tử nói, “Trò ấy không sợ gì nhưng vẫn chưa đáng kể”. Thực ra, Khổng Tử giảng lòng can đảm có nhiều tầng ý nghĩa khác nhau.


Mạnh Tử nói, “Chư vị muốn là người dũng cảm? Tôi từng nghe thầy Khổng Tử giảng về lòng can đảm như thế này: “Nếu chư vị hướng nội nhìn vào trong, và thấy chính nghĩa không ở phía này, vậy thì, ngay cả khi người đối diện là một người khiêm tốn, tôi nhất định sẽ không đe dọa anh ta. Nếu sau khi xem xét kỹ, tôi cảm thấy rằng chính nghĩa thực sự là ở phía tôi, vậy thì ngay cả khi người kia vô cùng hùng mạnh, tôi sẽ tiến lên.’” (Quyển đầu về Công Tôn Sửu trong Những tác phẩm của Mạnh Tử)

Những nỗ lực thay mặt cho bá tính của Khổng Tử

Trong suốt cuộc đời mình, Khổng Tử đã dẫn dắt học trò của ông tuân theo các nguyên lý như vậy. Tương truyền, Khổng Tử vóc dáng khôi ngô cường tráng, nhưng luôn đối tốt với mọi người. Ông rất nhẫn nại với học trò của mình, vô cùng khiêm nhường và cẩn thận. Nếu ông mắc lỗi, ông sẽ nhận lỗi với các học trò của mình.

Khi triều đại nhà Chu suy yếu, Khổng Tử đã cố gắng để thúc đẩy lòng nhân từ và thuyết phục nhà vua giáo hóa dân chúng bằng việc thúc đẩy lễ nghi và âm nhạc.

Khi Khổng Tử đến thăm nước Lỗ, ông đã cố gắng khôi phục lại nó nhưng thất bại. Sau đó, ông đi khắp đất nước để tuyên dương những chủ trương chính trị của mình. Ông đã đi đến các nước Chu, Tề, Vệ, Tào, Trần, Thái, Tống, Diệp, và Sở, nhưng những người đương quyền không tiếp thụ tư tưởng của ông và nhạo báng ông. Ông bị bao vây bởi những kẻ đã nhạo báng và đe dọa ông, và ông cảm thấy bị mắc kẹt và phải chịu đói khát. Mọi người khuyên ông nên từ bỏ.

Tuy nhiên, sự suy đồi của các tiêu chuẩn đạo đức đã không thể dao động được ông. Sự phỉ báng và những thái độ không tốt không thể cải biến được chí hướng của bậc Thánh giả. Ông luôn xem việc truyền thừa văn hóa lễ nhạc là thiên mệnh và thúc đẩy nhân nghĩa là trách nhiệm của mình. Ông nói với các học trò, “Nếu như thiên hạ có Đạo, thì ta không cần phải đến để cải biến việc ấy.”

Để truyền bá tư tưởng và giáo hóa bách tính, Khổng Tử mở nhiều trường tư thục. Không xét về xuất thân là nghèo khó hay giàu sang, thông minh hay ngu dốt, tất cả đều có thể đến học. Khi ở độ tuổi 70, ông tập trung vào việc chỉnh lý một số cuốn cổ thư. Đạo Khổng đã có một ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều khía cạnh của Trung Quốc như lịch sử, văn hóa, phẩm cách, tư tưởng,…

Noi gương nhà hiền triết Hy Lạp cổ Socrates

Năm 594 trước Công Nguyên, chính khách Solon của Athen kiến lập nền chính trị cộng hòa theo hình thức công dân bầu cử và bồi thẩm nghị sự. Tuy nhiên, thời bấy giờ luân thường đạo lý, các quy tắc đạo đức và tín ngưỡng bị suy thoái. Nhiều công tố viên và thẩm phán được bầu ra trong số những người nông dân và thương gia, chỉ nhìn nhận pháp luật và khoa học. Họ không có sự khiêm tốn thực sự tin tưởng vào Thần.

Socrates bảo lưu quan điểm rằng mục đích của triết học không phải là để nhận thức tự nhiên, mà đúng hơn là để “nhận thức tự kỷ.” Ông đề xướng nhận thức đạo lý làm người. Ông tin rằng mọi thứ trong thế giới này đã được Thần an bài.

Ông coi trọng đạo đức và cho rằng “mỹ đức chính là tri thức.” Ông dành trọn cuộc đời để tiếp xúc với mọi người và ngăn họ phạm sai lầm. Ông muốn khơi dậy lòng tự trọng của họ.

Năm 404 trước Công Nguyên, sự cai trị của một bạo chúa đã thay thế chính thể dân chủ. Kẻ độc tài đã ra lệnh cho Socrates phải bắt một người giàu để ông ta có thể tịch thu tài sản. Socrates từ chối. Ông không chỉ dám từ chối mệnh lệnh bất chính mà còn dám công khai lên án nó.

Bất kể đối phương là người quyền cao chức trọng hay thế lực hùng hậu, Socrates vẫn kiên trì nguyên tắc và chính nghĩa của mình. Ông không khuất phục trước bất kỳ lực lượng xã hội bất nghĩa nào, vì vậy mà ông đã chọc giận nhiều người.

Đối diện với tội danh “độc hại thanh niên,” Socrates đã nói như sau—được dịch bởi Plato—trước ban bồi thẩm Athen:

Vâng lời Thần, và chỉ khuyên nhủ những người hiểu biết, không kể họ là dân thành thị hay người lạ, vì vậy tôi không nghe theo ai cả… tôi nói cho các vị biết rằng tiền bạc không thể sinh ra mỹ đức, nhưng mỹ đức có thể cấp tiền bạc và những điều tốt đẹp khác cho cá nhân cũng như quốc gia. Đây là lời giảng của tôi, và nếu như điều này là học thuyết làm hư hỏng bọn trẻ, thì quả thực sự ảnh hưởng của tôi sẽ gây tai hại. Nhưng nếu có ai đó nói rằng điều này không phải là lời giảng của tôi thì người đó đang nói dối. Vì vậy, hỡi những cư dân Athen, tôi nói với các vị, tuân theo hay không tuân theo lệnh của Anytus, và tha bổng hay không tha bổng cho tôi; nhưng không kể bất cứ điều gì các vị làm, thì hãy hiểu rằng sẽ không bao giờ cải biến được hành động của tôi, không thể ngay cả khi tôi phải chết nhiều lần.”

Những bậc hiền triết thời xưa vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến chúng ta tới tận ngày nay. Can đảm thực sự không phải là dũng cảm chiến đấu ngoan cường, mà là đứng về phía chân lý. Chỉ cần kiên trì đạo nghĩa, cho dù đối diện cường quyền bạo lực, quyết không ngả lòng nhụt chí cải biến chí hướng của mình.

Vào thời Khổng Tử và Socrates, đạo đức dường như không hợp thời, nhưng hai ông không hề khuất phục. Cuối cùng, tư tưởng của họ được lưu truyền hàng nghìn năm. Chính sự can đảm của họ đã tạo nên nhân cách và sáng tạo một nền văn hóa duy trì đạo đức được truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Câu chuyện cái kén bướm


Một chàng trai tìm thấy cái kén bướm. Một hôm anh thấy cái kén hé một lỗ nhỏ. Anh ngồi hàng giờ nhìn chú bướm nhỏ cố thoát mình ra khỏi cái lỗ nhỏ xíu. Rồi anh ta thấy mọi việc không tiến triển gì thêm. Hình như chú bướm không thể cố hơn được nữa. Và anh quyết định giúp chú bướm nhỏ. Anh lấy kéo rạch cho cái lỗ to thêm.

Chú bướm dễ dàng thoát ra khỏi cái kén. Nhưng thân mình nó sưng phồng lên, đôi cánh thì nhăn nhúm. Còn chàng thanh niên cứ ngồi quan sát cái kén với hy vọng một lúc nào đó thân mình chú bướm sẽ xẹp lại và đôi cánh xòe rộng hơn đủ để nâng đỡ thân hình…

Nhưng chẳng có gì thay đổi. Sự thật là chú bướm đã phải bò loanh quanh suốt quãng đời còn lại với đôi cánh nhăn nhúm và thân hình sưng phồng. Nó chẳng bao giờ có thể bay được. Có một điều mà chàng thanh niên kia chưa hiểu: cái kén chật chội khiến chú bướm phải nỗ lực mới chui qua được cái lỗ nhỏ xíu kia là quy luật tự nhiên tác động lên đôi cánh và cơ thể của bướm, giúp chú có thể bay ngay khi thoát ra ngoài. Khi chàng làm động tác giúp đỡ nó tức là đã đi ngược lại tự quy luật nhiên mất rồi và vì đi "đường tắt" nên chú bướm tội nghiệp chẳng bao giờ đến đích được...

Vì thế, nếu bạn thấy mình đang phải vượt qua nhiều áp lực và căng thẳng thì hãy tin rằng sau đó bạn sẽ trưởng thành hơn...

Thứ Năm, 6 tháng 3, 2014

Câu chuyện bát mỳ

Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là Câu chuyện bát mì.Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.


Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt. Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.

Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân. Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi. Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.

- Xin mời ngồi!

Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:

- Có thể... cho tôi một… bát mì được không?

Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.

- Đương nhiên… đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.

Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:

- Cho một bát mì.

Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. Ngon quá - thằng anh nói.

- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.
Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng. Ba mẹ con cùng khen
: Thật là ngon ! Cám ơn ! rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.
- Cám ơn các vị ! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.

Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm. Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới. Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt. So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn. Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ. Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.

- Có thể… cho tôi một… bát mì được không?
- Đương nhiên… đương nhiên, mời ngồi!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:
- Cho một bát mì.
Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:
- Vâng, một bát mì!
Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:
- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?
- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.

Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!
Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra. Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận. Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.

- Thơm quá!
- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!
- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!
Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!

Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.

Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện. Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả. Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là 200đ/bát mì và thay vào đó giá của năm ngoái 150đ/bát mì. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy Đã đặt chỗ. Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến. Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đêu đã lớn rất nhiều.

- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.
Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:
- Làm ơn nấu cho chúng tôi…hai bát mì được không?
- Được chứ, mời ngồi bên này!

Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy Đã đặt chỗ đi, sau đó quay vào trong la to: Hai bát mì
- Vâng, hai bát mì. Có ngay.

Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.

Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi. Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.

- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!
- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?
- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.
- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.

Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.

- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!
- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?
- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.
- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.
- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!
- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!

- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết. Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học. Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc. Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.
- Có thật thế không? Sau đó ra sao?

- Thầy giáo ra đề bài: Chí hướng và nguyện vọng của em là gì? Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau:
Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc. Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa. Lại còn: Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa.

Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn. Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: Cố gắng lên ! Chúc hạnh phúc ! Cám ơn !

Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.

- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.
- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?
- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần. Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người.

Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được… Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn. Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con.

Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:
- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!

Lại một năm nữa trôi qua.

Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy Đã đặt chỗ nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.

Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi. Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại. Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.

Việc này có ý nghĩa như thế nào? Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi. Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ. Bàn số hai cũ trở thành cái bàn hạnh phúc, mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.

Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.

Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì. Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay. Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống. Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người.

Mọi người rất vui vẻ. Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai. Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới. Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa. Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ. Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà. ...

Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa. Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại. Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.

Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:

- Làm ơn… làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?
Gương mặt bà chủ chợt biến sắc. Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây. Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:
- Các vị… các vị là…

Một trong hai thanh niên tiếp lời:

-Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lức để sống. Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ. Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô. Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng. Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu. Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô. Cuối cùng, ý định nung nấ từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.

Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:

- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao ? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!
Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:
- Ồ phải… Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.
Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:
- Có ngay. Ba bát mì.

Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng : Chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt ,nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.

Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản. Có người nhận xét rằng : "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt." Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế. Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.

Thứ Tư, 5 tháng 3, 2014

Những câu chuyện vô cùng cảm động về loài chó

Chú chó bị lạc tinh khôn tìm cách trở về với chủ, chó hiểu tiếng người, chó chết theo chủ... là những câu chuyện vô cùng cảm động về loài chó nuôi mà độc giả Nguyễn Hữu Huấn Số nhà 184 Mai Anh Tuấn, Ba Đình, Hà Nội chia sẻ.

Chuyện thứ nhất: Con Lu tinh khôn


Tôi chưa bao giờ chứng kiến ai đó nuôi chó và mèo lại khôn như chó và mèo nhà bác tôi. Bác là chị mẹ tôi, bác lấy chồng năm 17 tuổi sinh được 3 người con, bác trai mất khi bác chưa đầy 30 tuổi, bác ở vậy nuôi con. Tôi nhớ vào khoảng giữa năm 1974, nhà bác tôi nuôi 2 con chó con lớn đặt tên là Lu, còn con chó nhỏ tên là gì tôi đã quên mất, với cả một con mèo. Tôi nhớ con Lu nó cực kỳ dữ dằn, đặc biệt là vào buổi tối, ai chỉ chớm bước vào cổng là nó đã xồ ra, sủa váng óc. Có một điều lạ, tuy tôi là người quen, tối nào cũng lên nhà bác ngủ nhưng bao giờ con Lu cũng lao ra sủa, sủa to, nhưng không gắt. Bao giờ bác tôi nói “cậu Huấn hả!” thì nó mới thôi. Còn khi tôi đến mà không ai có nhà thì nó không sủa lấy một tiếng.

Một hôm buổi sáng, Lu mang về một cái túi vải con, trong đựng tiền của ai đi chợ đánh rơi… Con Lu nhiều lần bắt được cá mang về nhà. Khi trời mưa gặp cá lách lên, nó lấy chân gạt cho con cá ra xa rãnh, vũng nước, bao giờ cá yếu thì công về sân báo cho bác tôi biết. Con mèo cũng thế… Một hôm tôi đang học, thấy con mèo cứ kêu: meo, meo, meo, bác tôi nói “Chắc con mèo lại mang cái gì về nhà rồi”, thế là tôi với bác cầm đèn chạy xuống bếp xem, thì thấy ngay con cá quả to bằng cổ chân đang ngoe nguẩy, nằm giữa cửa bếp, mà trên mình không hề xây xát, bác tôi nói: chắc nó ngoạm vào vây lưng công về.

Con Lu thực sự là thành viên trong gia đình, mọi người trong gia đình bác tôi đi đâu về, nó chạy ra lăn xả vào mừng, đuôi ngoe nguẩy suốt, bao giờ bảo “thôi nào!” thì nó mới thôi. Năm đó người ta cấm chó vì có chó điên, bắt phải bán, không thì đập chết. Bác tôi không bán… Họ thành lập các nhóm người đi đến từng nhà có chó dùng gậy đập chết, họ đến nhà bác tôi, khi họ vây đánh, con Lu nhảy xuống ao bơi qua ao rộng chạy thoát, còn con chó nhỏ bị đập chết ngay cửa bếp. Bác tôi về mang ghế lên ủy ban xã chửi đúng 3 ngày cái đứa đập chết chó nhà bác. Bác tôi có con cả đi bộ đội đặc công hy sinh năm 68, nhà lại neo người, nên họ kệ cũng không dám dây… Rồi một năm, đêm ba mươi tết, đón giao thừa nhà nào cũng đốt pháo, có nhà còn nổ cả kíp mìn… con Lu sợ quá, bỏ chạy ra cánh đồng, chắc trời tối, lại đâu đâu cũng đốt pháo nên nó mải miết chạy mà lạc mất đường về… Sáng ra không thấy chó đâu, bác tôi biết ngay là nó sợ pháo chạy mất, nhưng nghĩ: chắc là nó sẽ tìm đường quay về nhà thôi… Chờ mãi, chờ mãi không thấy nó về, mọi người nghĩ rằng đã mất, mọi người, ai cũng ngẩn ngơ vì nó. Đột nhiên đến ngày mùng 10 tết thì nó trở về với một sợi dây xích to ở cổ… Sau tôi nghe một anh bạn kể lại, bạn anh ấy, “thằng Qui Cõn” (anh tên Qui, còn bố tên là Cõn, thời chúng tôi gọi tên bao giờ cũng kèm theo tên bố hoặc mẹ) bắt được con chó to lắm đang hẹn mấy anh em bao giờ qua rằm tháng Giêng thì làm thịt. "Con chó to và ngoan lắm, sáng mùng 1 tết nó vào nhà và thế là anh Qui xích nó vào cột, cho ăn và định ngoài rằm thì làm thịt. Cứ tưởng nó quen nhà rồi nên anh Qui chủ quan buộc không kỹ nên nó chạy mất…”. Tôi biết nó giả vờ ngoan ngoãn, để cuối cùng tìm cách chạy thoát, về với chủ…

Ảnh minh họa.

Sau đó vài năm lại có lệnh cấm chó và lần này họ làm ngặt nghèo hơn, các nhà đều phải bán hoặc làm thịt hết, mọi người khuyên nhủ bác tôi, cuối cùng bác tôi cũng phải dứt ruột bán nó đi. Khi bán bác tôi phải ra khỏi nhà để không phải nhìn cảnh người ta bắt nó đi. Chị tôi đi học về, thấy chó bị bán đi mất, lăn ra khóc, 3 ngày không đi học, hàng tuần vẫn còn khóc vì con Lu. Còn tôi, tuy ít gắn bó với nó, nhưng mấy chục năm qua tôi vẫn nhớ như in hình bóng của nó, nó là con Lu.

Chuyện thứ hai: Chó hiểu tiếng người

Cùng thời với con Lu nhà bác, nhà tôi có nuôi một con chó, đặt tên là Ky. Các cụ thường nói “nuôi chó, nuôi mèo phải có tay”. Chó, mèo không phải ai cũng nuôi được; có nhà nuôi một thời gian thì chết hoặc bỏ đi mất, chó, mèo của chủ nào thì học được tính nết y như của chủ ấy. Cũng chả hiểu tại sao nhà tôi nuôi rất nhiều chó nhưng con nào cũng cực kỳ hiền lành, ban ngày hầu như không nghe tiếng sủa. U tôi đùa: “Chó nhà mình chắc bị câm”; có lẽ một phần do nhà tôi ngay đường, lại cạnh hợp tác xã sản xuất mũ, hàng ngày những người qua đường và người làm tập thể ở hợp tác cứ chạy vào xin múc nước mưa trong bể uống, nên chó sủa lắm mỏi mồm mà chả có tác dụng gì nên thế hệ trước truyền cho thế hệ sau không thèm sủa nữa.

Khi họ cấm chó, nhà tôi cũng phải bán đi, hôm trước bố tôi nói loáng thoáng là ngày mai bán nó cho tổ lực điền để họ liên hoan. U tôi nghe thấy, vội nói: ấy đừng nói nữa, nói thế, nó biết thì sao mà bắt được nó. Y như rằng sáng hôm sau người ta đến bắt nó thì không thấy nó đâu nữa, bữa trưa cũng không thấy nó về ăn, chập tối mới thấy nó về, cứ lảng lảng có vẻ cảnh giác lắm. Hôm sau khi nó vào trong nhà, bố tôi đóng cửa lại để họ đến bắt, khi họ vào bắt không hiểu sao nó vọt qua được cửa sổ, mà khoảng cách giữa hai chấn song thì cực bé… chắc trong giờ phút sinh tử nó đã làm cái việc mà bình thường dù có cố gắng mấy nó cũng không bao giờ làm được…

Và rồi cuối cùng, cũng phải bán nó đi, hôm họ bắt nó, tôi về chạy ra nhìn thấy nó bị nhốt trong lồng, đuôi vẫy vẫy mà nước mắt cứ chảy ròng ròng; không thể nhìn thấy cảnh ấy được nữa, tôi vội chạy ra chỗ khác mà cổ họng nghẹn đắng.

Chuyện thứ ba: Chó chết theo chủ

Bà mà tôi sắp kể đây, là chị ruột bà ngoại tôi. Bà có 3 người con trai, bác cả đã ra ở riêng, bà ở chung với gia đình bác thứ hai và thứ ba. Bác thứ hai có 3 người con, bác thứ ba có 8 người con, thật là một đại gia đình. Bà tôi là người chỉ huy, người quản lý toàn bộ kinh tế trong gia đình, mặc dù bác thứ hai là chủ nhiệm hợp tác xã mua bán, bác thứ ba là chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp lững lẫy một thời, cũng đã nhiều tuổi, nhưng một điều thưa mẹ, hai điều thưa mẹ, và không bao giờ dám làm trái ý bà, cả cái đại gia đình đồ sộ ấy tuyệt nhiên không bao giờ xảy ra mâu thuẫn. Cho đến bây giờ tôi cũng không thể hiểu được tại sao bà lại chỉ huy được, mà bà thì rất ngọt ngào, nhẹ nhàng, chắc bà phải rất công minh và đầy sức thuyết phục mới giữ cho cái đại gia đình ấy được êm ấm. Khoảng năm 1983 khi ấy bà 93 tuổi, bà mất, trước khi mất bà tôi đã kịp làm 2 cái nhà mới để cho hai bác ra ở riêng, nhà cũ đang ở, bà bảo cho anh Phúc, con trai lớn nhà bác thứ ba do anh ấy bị cảm mạo, liệt một bên tay, cần được giúp đỡ. Không ai thắc mắc gì.

Chú chó Capitan đã bỏ nhà đến nằm bên mộ chủ nhân Argentinian Miguel Guzman (Đức) trong suốt sáu năm sau khi ông mất. 

Bà tôi có nuôi một con chó đen, năm bà mất, nó đã được hơn 14 năm rồi, nó đã trở thành thành viên không thể thiếu được của đại gia đình ấy. Trước khi mất, bà dặn hai bác: sau khi mẹ mất thì con chó nó cũng chết, các con phải chôn nó… sau này cái xương của nó có thể nấu cao, vì nó cũng rất tốt. Và đúng như thế. Bà mất rồi, nó cứ quanh quẩn, nước mắt ròng ròng… thời gian sau nó cứ ăn ít dần, lịm dần… khoảng ba tháng sau thì nó mất.

Bác tôi, theo lời bà dặn, đem chôn nó dưới gốc cây khế, và chắc cũng không ai động đến bộ xương của nó.

Và những câu chuyện khác

Ông ngoại tôi kể lại ngày xưa cũng hay ăn thịt chó . Nhưng có lần cắt cổ con chó nhà, lỡ để sảy mất. Chiều trở về, cổ vẫn còn dính máu me nhưng khi gặp ông nó vẫn mừng rỡ, ngoắt đuôi! Kể từ đó ông bỏ hẳn, không ăn thịt chó nữa. Còn rất nhiều chuyện thật về chó như thất lạc xứ người đến 5-7 năm khi mò về được đã vô cùng mừng rỡ khi gặp chủ cũ! Chó cứu chủ, chó nằm cạnh mộ chủ, chó chung tình, chó trung thành... 

Ngày trước nhà tôi có nuôi một con chó, nó rất khôn. Tôi đi học xa nhà cả năm mới về một lần. Thời gian lâu như vậy nhưng nó không hề quên tôi. Khi thấy tôi mang balô bước vào sân, nó đã chạy ào ra, lăn tròn dưới đất, cất tiếng kêu ăng ẳng để mừng tôi mà lúc đó tôi có cảm giác tiếng kêu của nó như tiếng khóc để mừng tôi vậy. Khi tôi ngồi một mình, nó chạy lại ngồi cạnh tôi. Có nhiều lầm tôi đút ngón tay vô miệng nó nựng, nó lấy hai hàm răng ấn nhẹ vào ngón tay tôi, không dám mạnh hơn vì sợ tôi đau. Nghe tiếng xe máy của ba tôi đi làm về còn xa lắc, mà nó đã nhận ra và chạy tuốt ra ngõ đón...v..v. Ba tôi là người khó tính nhất với vật nuôi, nhưng ông lại thích nó vô cùng. Cả nhà tôi coi nó là một thành viên trong gia đình.

Cách đây 22 năm, tôi lâm vào cảnh phá sản. Nồi cơm, thường ngày chia thành hai phần, phần dưới là cơm gạo, phần trên là cơm sắn. Cơm gạo dành cho cha tôi và hai con nhỏ, cơm sắn dành cho hai vợ chồng và con chó nhỏ. Một lần, nhà có được đĩa thịt lợn, khi dọn sơ suất không ai trông nên con chó đã lẻn xơi mất đĩa thịt. Tôi tức giận gọi nó vào, dúi mũi nó vào đĩa thịt mà đánh nó để cho nó nhớ. Từ đó, mỗi lần tôi gọi nó cho nó ăn cơm nó cứ chạy đi, rồi sau mới lấm lét vào ăn. Năm sau đó, gia đình tôi đi làm ăn xa, tôi giao nó cho chị gái tôi nuôi. Một hai năm sau về, tôi gọi nó, nó vẫn vậy, lấm lét không dám đến gần tôi. Tôi lấy cơm, thịt cho vào bát và để ra gần chỗ nó nằm để khi nào nó cảm nhận "không có tôi" nó sẽ ăn. Giờ đây, nó không còn nữa nhưng lòng tôi vẫn nhớ nó, thương nó và ân hận vì việc mình đã cư xử với nó như vậy

Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014

Tự vu oan cho mình để cứu người, được thăng chức làm tể tướng

Chu Tất Đại là người thời Tống, chữ là Tử Sung, nhất tự Hồng Đạo, tổ tiên là người Quản Thành, Trịnh Châu. Tổ phụ tên Chu Danh Sân, ông qua đời tại Lư Lăng vào những năm Huyên Hòa, cho nên dựng nghiệp định cư tại Lư Lăng. Cha ông là Chu Lợi Kiến, từng là tiến sỹ thái học, đỗ đầu khoa thi tiến sỹ năm thứ 20 Tống Thiệu Hưng, đảm nhiệm chức Hộ Tào tại Huy Châu. Khi Hiếu Tông còn tại vị, ông không ngừng thăng quan tiến chức, làm quan đến chức tể tướng.



Chu Tất Đại lên ba thì cha mất, 11 tuổi thì mẹ qua đời. Thời niên thiếu một người bác làm quan nuôi và cho ông đi học. Sau khi thành niên, quan Tư Phong Lang tên Vương Bảo gả con gái cho Tất Đại. Năm 21 Tống Thiệu Hưng, Chu Tất Đại 26 tuổi đỗ tiến sỹ, năm sau ông đảm nhiệm chức quan huyện úy tại Cống Châu.

Năm Thiệu Hưng thứ 24, ông nhận chức giam quản tại phủ Lâm An và Tề Cục. Một hôm, trong cục xảy ra hỏa hoạn, cháy lan ra mấy chục hộ dân. Trong vụ án thẩm tra đứng đầu là quan ngự sử Phùng Thuấn Chiếu, Chu Tất Đại hỏi: “Nếu nguyên nhân vụ hỏa hoạn do quan cai quản gây ra, theo luật nên xử thế nào?” Đáp rằng: “Quan cai quản phải bị xử chết.” Chu Tất Đại lại hỏi: “Nếu hỏa hoạn là do quan chủ quản gây ra theo luật nên xử thế nào?” Quan ngự sử Phùng Thuấn Chiếu nói: “Theo luật thì bãi làm thứ dân.” Nên Chu Tất Đại quy trách nhiệm vụ hỏa hoạn về mình và bị bãi chức làm thứ dân, còn viên tiểu lại được miễn tội chết.

Sau khi Chu Tất Đại bị bãi chức, ông chỉ được dẫn vợ là Vương Thị và con trai mới chào đời là Chu Luân về nhà nhạc phụ là Vương Bảo tá túc. Khi đến nhà nhạc phụ, tuyết rơi nhiều, bốn phía mịt mùng, có một cậu bé đang quét tuyết trong sân. Nhạc phụ Vương Bảo đêm trước nằm mơ thấy mình quyét tuyết gặp tể tướng, đến khi gặp khách tới nhà lại là cậu con rể Chu Tất Đại bị phế chức, ông thở dài mà rằng: “Hôm nay quét tuyết đón khách, hóa ra lại là đón một quan viên thất chức.”

Sau khi ở nhờ tại nhà nhạc phụ Chu Tất Đạt khổ công học hành. Ba năm sau ông vào kinh sư ứng thí, ông trọ tại nhà một quan viên trong triều. Trong thời gian đó vừa hay thấy vị quan này mang cuốn Lỗ Bộ Đồ (bản vẽ quân sự), ông liền mượn về đọc. Đến hôm thi vừa hay ra chủ đề này, nên ông đỗ bác học khoa Hoành từ, nhận chức giáo sư phủ Kiến Khang.

Trước khi Chu Tất Đại đỗ bác học khoa Hoành từ, ông từng nằm mơ thấy mình đến địa phủ âm gian, gặp một phán quan đang chỉ trích một con quỷ phụ trách chuyện nặn hình thai rằng: “Người này sống trên thế gian có âm đức, tương lai sẽ làm tể tướng. Nhưng tướng mạo của ông ấy lại xấu xí như vậy, làm thế nào đây?” Thế là con quỷ nặn hình thai yêu cầu tể tướng đắp thêm râu, và vuốt hai bên hàm Chu Tất Đại bắt đầu đắp râu. Chu Tất Đại bừng tỉnh cơn mơ còn cảm thấy đau âm ỉ.

Thời Thiệu Hưng, Chu Tất Đại thậm chí còn được thăng chức lên đến làm tể tướng. Sau đó Chu Tất Đại vì bị liên lụy bởi bè phái trong triều tranh đấu khiến nhất loạt bị bãi chức, một hôm tình cờ gặp một tướng sỹ tới yết kiến Chu Tất Đại tại cổng nhà mình. Người tướng sỹ nói: “Tể tướng ở đâu?” Chu Tất Đại hành lễ đáp rằng: “Trước mặt ông chính là vị tể tướng đang ở nhà đợi giáng tội.”

Vị tướng sỹ nói: “Diện mạo của tể tướng sao lại xấu xí như vậy, phải chăng ông đang lừa ta?” Chu Tất Đại vẫn điềm nhiên mặt không biến sắc dẫn vị tướng sỹ vào trong phòng, mời ông ngồi. Vị tướng sỹ lại yêu cầu được yết kiến tể tướng, Chu Tất Đại lại nói: “Người đứng trước mặt ông chính là tể tướng đang ở nhà chờ giáng tội.” Lúc này vị tướng sỹ nắm lấy bộ râu dài của Chu Tất Đại nói: “Đúng là tể tướng rồi!” Chu Tất Đại nhớ lại cảnh trong giấc mộng khi trước, trong lòng âm thầm tin phục.

Cư sỹ Hoài Tây thời nhà Thanh tên là Chu An Sỹ trong cuốn “An Sỹ Toàn thư” vô cùng tôn sùng Chu Tất Đại: “Bản thân gây tội, người thế tục đều nghĩ cách tìm kế giáng họa cho người khác. Đây lại là chuyện vứt bỏ tiền đồ quan chức của bản thân mình mà gánh chịu tội lỗi của người khác? Khí chất và sự độ lượng từ nội tâm của tể tướng không thể đo đếm được.”

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

Đừng quên ước nguyện xưa

Khi lần đầu tôi nghe được, “Đừng quên Ước nguyện xưa”, đó là từ một tu sỹ ở Nhật Bản. Lúc ấy, tôi không hiểu được ý nghĩa của nó là gì. Sau này, tôi dần hiểu ra rằng nhiều việc làm trong thế nhân này đòi hỏi cần phải có sự bền chí. Không có nó, bạn chẳng thể thành công. Khi một ước nguyện xuất hiện, nếu một người chỉ có 3 phút nhiệt thành, thì kết cục sẽ hoàn toàn là phí thời gian và không đạt được gì cả.


Một lần tôi quan sát vài người bạn một cách cẩn thận. Thật ngạc nhiên, tôi nhận ra cuộc sống của họ là kết quả của những nguyện ước của họ. Nếu một người có thể ấp ủ mãi ước nguyện cháy bỏng ấy, tương lai anh ta sẽ trở thành như chính anh ta đã ước nguyện. Một số người không đồng ý với tôi bởi vì họ từng có những mơ ước khi còn trẻ, nhưng không bao giờ thành sự thực. Ví dụ, tôi có một đồng nghiệp từng muốn được làm một nhạc sĩ khi ông còn trẻ, nhưng nguyện ước không thành. Ở độ tuổi ngũ tuần, ông vẫn là một công nhân bình thường. Tôi hỏi ông tại sao lại từ bỏ ước mơ. Ông trả lời rằng ông đã thi vào trường đại học âm nhạc nhưng bị trượt. Sau đó, ông từ bỏ và không bao giờ mơ ước trở thành nhạc sỹ nữa. Rõ ràng ông đã không kiên định với ước mơ của mình. Ông đã từ bỏ nó ngay khi gặp phải khó khăn. Nếu ông có thể tiếp tục nung nấu ước mơ được học âm nhạc sau khi thi trượt, thì cuộc đời ông hẳn đã khác nhiều rồi.

Một người bạn khác của tôi cũng nói một cách hối tiếc rằng khi anh còn trẻ anh rất thích hội họa. Mỗi cuối tuần anh đến miền núi non để vẽ cảnh thiên nhiên. Thầy giáo anh cũng khuyến khích anh trong nghiệp vẽ. Không may thay, sau khi tốt nghiệp, để kiếm được nhiều tiền hơn, anh đã hoàn toàn từ bỏ niềm đam mê hội họa. Nay anh đã nghỉ hưu và cảm thấy rất chán chường. Một ngày anh gặp lại một người bạn cũ từng cùng anh luyện tập vẽ tranh khi còn trẻ. Người bạn ấy nay đã trở thành một họa sỹ tên tuổi và những bức họa của anh rất giá trị. Là một họa sỹ, anh ta không cần phải nghỉ hưu; ngược lại, công phu luyện tập, kinh nghiệm và nỗ lực bỏ ra của anh ấy trong suốt sự nghiệp sẽ giúp anh ấy sáng tạo thêm nhiều tác phẩm hội họa khi anh ấy về già.

Trong thực tế, nhiều người thật giống như hai người mà tôi đề cập đến, thường bỏ dở nửa chừng những ước mơ của họ một cách quá dễ dàng khi họ gặp phải khó khăn trở ngại. Thật là không dễ ngày đêm ấp ủ ước mơ. Một người tầm thường thì không thể bền chí. Vì thế, họ sẽ không thể nào biến ước mơ của họ thành hiện thực được. Không kể một người hối tiếc bao nhiêu đi nữa, đời họ chẳng thể làm lại từ đầu. Vì thế đừng quên Nguyện ước nguyên thủy của mình. Đó là điều tôi muốn nhấn mạnh với hầu hết các bạn trẻ.

Tại nhân gian này, khi nhiều người làm việc gì đó bất thành, họ oán trách số phận và người khác rằng đã không giúp họ. Thực ra, mọi ý nghĩ và tư tưởng của người đó là quan trọng nhất, bởi các Thần đánh giá mọi suy nghĩ của con người và năng lượng vũ trụ cũng sẽ trợ giúp người ta đạt được điều nguyện ước của họ. Nếu một người mất đi niềm tin, hoặc giả những việc anh ta làm không theo đúng các Nguyên Lý của vũ trụ, anh ta chẳng thể đạt được “thành tựu bằng ước nguyện của trái tim”. Vì thế bất kể một người cư xử hay tu luyện như thế nào, câu nói “Đừng quên Nguyện ước xưa”, sẽ nhắc nhở để người ta không bị dòng đời cuốn đi, không bỏ cuộc khi đứng trước các khó nạn, và không trở nên chểnh mảng khi ở trong môi trường thoải mái, mà tiến bước về mục đích của cuộc đời một cách vững chãi.